Hướng dẫn một số biện pháp phòng trị bệnh trên tôm an toàn và bền vững

Thừa Thiên Huế có diện tích nuôi tôm khoảng 6.000 ha chiếm khoảng 1,5% diện tích, tập trung vào các địa phương ven biển và vùng đầm phá như Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc và Hương trà. Thời gian trong những năm gần lại đây bệnh đốm trắng do virut trên đối tượng tôm nuôi là bệnh phổ biến, gây hại trên diện rộng, ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh. Nhằm giúp bà con nuôi trồng thủy sản có thể nhận biết và phòng, chống bệnh đốm trắng do virut ở tôm nuôi, nâng cao năng xuất, giảm thiểu dịch bệnh cũng như chủ động trong phòng chống dịch bệnh ở tôm nuôi, tạo ra sản phẩm an toàn. Chúng tôi xin chia sẻ một số biện pháp như sau:

 

Thừa Thiên Huế có bờ biển dài 126 km và đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 22 ngàn ha… rất thuận lợi cho việc khai thác nuôi trồng và chế biến thủy sản. Những năm qua kinh tế thủy sản có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Có thể khẳng định rằng, Thừa Thiên Huế có thế mạnh về thủy sản, Tỉnh đang tập trung đưa ngành thủy sản phát triển theo hướng hiện đại, dựa trên nền kinh tế tri thức, văn hóa và bảo vệ môi trường.

Vùng đầm phá và vùng cát ven biển Thừa Thiên – Huế có đến 42 xã, thị trấn thuộc 5 huyện, thị xã gồm: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc, rộng hàng chục nghìn ha với khoảng 450.000 người sinh sống, trong đó khoảng hơn 41% dân số đánh bắt, nuôi trồng thủy sản.

Thừa Thiên Huế có diện tích nuôi tôm khoảng 6.000 ha chiếm khoảng 1,5% diện tích, tập trung vào các địa phương ven biển và vùng đầm phá như Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc và Hương trà. Theo thống kê của tỉnh trong 5 tháng đầu năm 2017, diện tích nuôi tôm khoảng gần 3.000 ha, trong đó diện tích tôm sú khoảng 2.500 ha, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng khoảng 500 ha, và một diện tích khá lớn nuôi tôm theo hình thức nuôi xen ghép và sản lượng đạt tôm các loại đạt 504 tấn.

Theo nhiều báo cáo nghiên cứu đánh giá: Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra nghiêm trọng trong nuôi trồng thủy sản, do các chất hữu cơ dư thừa từ thức ăn, phân và các rác thải khác đọng lại dưới đáy ao nuôi; các hóa chất, kháng sinh được sử dụng trong quá trình nuôi trồng cũng tồn đọng lại mà không được xử lý; việc hình thành lớp bùn đáy do tích tụ lâu ngày của các chất hữu cơ, cặn bã là nơi sinh sống của các vi sinh vật gây thối, các vi sinh vật sinh các khí độc , vi sinh vật gây bệnh, nhiều loại nấm và động vật nguyên sinh khác,… Do đó, Hiệu quả của hoạt động nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng có xu hướng giảm, môi trường bị ô nhiểm, đời sống của người dân khó khăn.

Thời gian trong những năm gần lại đây bệnh đốm trắng do virut trên đối tượng tôm nuôi là bệnh phổ biến, gây hại trên diện rộng, ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh. Nhằm giúp bà con nuôi trồng thủy sản có thể nhận biết và phòng, chống bệnh đốm trắng do virut ở tôm nuôi, nâng cao năng xuất, giảm thiểu dịch bệnh cũng như chủ động trong phòng chống dịch bệnh ở tôm nuôi, tạo ra sản phẩm an toàn. Chúng tôi xin chia sẻ một số biện pháp như sau:

1. Những thông tin chung về bệnh đốm trắng do vi rút ở tôm nuôi cần biết:

a) Tác nhân gây bệnh: Bệnh đốm trắng ở tôm nuôi nước lợ (White Spot Disease – WSD) là bệnh do vi rút, vi rut gây bệnh đốm trắng thuộc giống Whispovirus, họ Nimaviridae có cấu trúc nhân dsADN (mạch đôi). Vi rút có thể sống bên ngoài vật chủ trong thời gian 30 ngày trong nước biển được giữ ở 30oC ở điều kiện phòng thí nghiệm và trong nước ao khoảng 3-4 ngày. Vi rút bị bất hoạt ở nhiệt độ 50oC trong thời gian khoảng 120 phút và 60oC trong thời gian khoảng 1 phút.

b) Một số đặc điểm dịch tễ:

– Loài tôm cảm nhiễm: Tôm sú (Penaeus monodon), tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei), tôm nương (P. chinensis), tôm he Nhật bản (P. japonicus), tôm bạc (P. merguiensis), tôm thẻ (P. semisulcatus), tôm rảo (Metapenaeus ensis).

– Vật mang mầm bệnh gồm: Một số loài giáp xác 10 chân (decapoda), giun nhiều tơ, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, mực.

– Lứa tuổi mắc bệnh: Tôm bị bệnh ở mọi giai đoạn, nhưng mẫn cảm nhất ở giai đoạn 40 – 45 và 60 – 65 ngày sau khi thả nuôi. Bệnh có khả năng gây chết lên đến tỷ lệ 90% trong vòng 3 – 7 ngày.

– Mùa xuất hiện bệnh: Bệnh xuất hiện quanh năm, nhưng phát triển mạnh nhất vào thời điểm giao mùa: cuối mùa xuân – đầu hè, và cuối mùa thu – đầu đông, mùa mưa – mùa khô. Khi thời tiết có nhiều biến động về nhiệt độ, đặc biệt khi nhiệt độ nước dưới 26 °C, môi trường không thuận lợi cho tôm phát triển, sức đề kháng giảm.

– Phương thức truyền lây: Bệnh truyền theo chiều ngang từ tôm bệnh, vật chủ trung gian, thức ăn tươi sống nhiễm vi rút,…. sang tôm khỏe mạnh; bệnh truyền theo chiều dọc từ tôm bố mẹ sang tôm con.

c) Triệu chứng, bệnh tích:

– Tôm yếu bỏ ăn, bơi lờ đờ, táp mé (bơi dạt bờ), đỏ thân.” Thành “Tôm ăn nhiều đột ngột sau đó bỏ ăn, yếu, bơi lờ đờ, tấp mé (bơi dạt bờ), đỏ thân rồi chết.

– Quan sát tôm bị bệnh có dấu hiệu điển hình: Dưới vỏ vùng giáp đầu ngực, vỏ thân, đuôi có nhiều đốm trắng, đường kính 0,5 – 2mm. Các đốm trắng nằm bên trong vỏ nên khi cọ rửa, chà xát hoặc xử lý nhiệt không bị mất đi.

– Bệnh tích vi thể: Các tế bào mang, biểu bì ruột, dạ dày, tế bào biểu bì dưới vỏ, cơ quan lympho có nhân sưng to và bị huỷ hoại.

2. Chẩn đoán bệnh

a) Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các triệu chứng, bệnh tích điển hình của tôm bị bệnh đã được mô tả ở trên.

b) Lấy mẫu để chẩn đoán xét nghiệm bệnh:

Tôm được thu làm mẫu xét nghiệm phải còn sống hoặc đang trong tình trạng bệnh sắp chết.

– Tôm sống được thu có thể được bảo quản ở 4oC trong thời gian 24h.

– Bảo quản trong dung dịch cồn:

+ Đối với tôm ấu trùng hoặc tôm postlavare (hậu ấu trùng): Thu lấy khoảng 30 con/mẫu. Sau đó cố định trong cồn 900 ở nhiệt độ phòng, tỷ lệ mẫu và dung dịch cố định là 1/10;

+ Đối với tôm lớn: Thu lấy khoảng 3-5gr/mẫu. Sau đó cố định trong cồn 90oC ở nhiệt độ phòng, tỷ lệ mẫu và dung dịch cố định là 1/10.

c) Chẩn đoán phòng thí nghiệm:

– Xét nghiệm bằng phương pháp PCR, Real-time PCR hoặc theo hướng dẫn của Cục Thú y.

– Phương pháp kiểm tra mô bệnh học: Quan sát dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 400 lần, những tế bào trong mô mang, dạ dày, biểu mô dưới vỏ kitin, cơ quan tạo máu có nhân phình to.

3. Phòng, chống dịch bệnh tại cơ sở sản xuất tôm giống

a) Hồ sơ quản lý cơ sở:

Có hệ thống sổ theo dõi sức khỏe tôm, sử dụng thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học và sản phẩm xử lý cải tạo môi trường trong quá trình sản xuất.

b) Phòng bệnh:

Áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, bao gồm:

– Tôm bố, mẹ có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh, xét nghiệm không nhiễm các bệnh nguy hiểm trong Danh mục các bệnh động vật thuỷ sản phải công bố dịch, đáp ứng quy định hiện hành.

– Sử dụng con giống đạt yêu cầu về chất lượng cũng như số lần tham gia sinh sản theo quy định.

– Dụng cụ, phương tiện vận chuyển, bảo hộ lao động và người vào trại phải được vệ sinh, tiêu độc khử trùng; không dùng chung dụng cụ giữa các hồ/bể. Dụng cụ chứa tôm và dụng cụ dùng trong quá trình sản xuất cần được vệ sinh, khử trùng kỹ trước và sau khi dùng.

– Người làm việc trong khu vực sản xuất giống phải có bảo hộ, thực hiện vệ sinh, tiêu độc khử trùng khi ra, vào cơ sở.

– Sử dụng nguồn thức ăn có chất lượng tốt, không mang mầm bệnh; các loại thức ăn tổng hợp và tự chế biến phải được bảo quản tốt, không bị nhiễm nấm mốc và nhiễm khuẩn; thức ăn tươi sống phải được xử lý đảm bảo không còn mầm bệnh trước khi cho ăn.

– Nguồn nước trước và sau khi sử dụng phải được xử lý, tiêu diệt mầm bệnh bằng các loại hóa chất được phép sử dụng hoặc có thể sử dụng phương pháp sinh học khác để tiêu diệt hoặc kìm hãm tác nhân gây bệnh.

– Lấy mẫu xét nghiệm:

+ Đối với cơ sở chưa được công nhận an toàn dịch bệnh: Định kỳ, 1lần/2 tháng/cơ sở lấy mẫu nước, tôm bố mẹ, tôm post để xét nghiệm xác định mầm bệnh;

+ Đối với cơ sở đã được công nhận an toàn dịch bệnh: Lấy mẫu xét nghiệm khi có nghi ngờ.

c) Xử lý dịch bệnh:

– Tiến hành tiêu hủy tôm bố, mẹ, ấu trùng và hậu ấu bị bệnh có sự giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về thú y thủy sản.

– Xử lý môi trường nước, bể, dụng cụ khu vực sản xuất giống… bằng các loại hóa chất có trong Danh mục thuốc thú y, hóa chất dùng trong thú y thủy sản được phép lưu hành tại Việt Nam.

4. Phòng, chống dịch bệnh tại cơ sở nuôi thương phẩm

a) Hồ sơ quản lý cơ sở: Có hệ thống sổ theo dõi sức khỏe tôm, sử dụng thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học và sản phẩm xử lý cải tạo môi trường trong quá trình nuôi.

b) Phòng bệnh:

Áp dụng quy trình kỹ thuật nuôi theo hướng dẫn của Tổng cục Thủy sản; đồng thời áp dụng các biện pháp phòng bệnh trong quá trình nuôi như sau:

– Cơ sở nuôi phải đảm bảo có đường nước cấp, thoát nước riêng biệt; có ao lắng, ao xử lý chất thải.

– Sử dụng con giống đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng.

– Nếu sử dụng thức ăn tươi sống: Đảm bảo không ôi thiu, phải được xử lý đảm bảo không mang mầm bệnh, lượng thức ăn hợp lý tránh dư thừa gây ô nhiễm môi trường nuôi.

– Sau 01 tháng thả nuôi, định kỳ 1-2 tuần diệt khuẩn ao nuôi 01 lần. Bổ sung Vitamin C, khoáng chất, men tiêu hóa nâng cao sức đề kháng cho tôm.

– Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh để phòng bệnh.

– Kiểm soát, loại bỏ vật chủ trung gian truyền bệnh trong quá trình nuôi.

– Không sử dụng chung dụng cụ giữa các ao nuôi, phải được vệ sinh, tiêu độc khử trùng sau mỗi lần sử dụng.

– Hạn chế người, động vật vào khu vực nuôi.

– Kiểm tra sức khỏe tôm hằng ngày như: khả năng hoạt động, màu sắc tôm, vỏ tôm, khối gan tụy, ruột, bộ phụ, lượng thức ăn.

– Kiểm tra màu nước, chỉ tiêu môi trường hằng ngày.

– Chủ cơ sở nuôi lấy mẫu gửi xét nghiệm: Lấy mẫu vào tháng thứ 2 sau khi thả nuôi, bao gồm: mẫu nước, giác xác, tôm để gửi xét nghiệm xác định mầm bệnh.

– Chủ cơ sở nuôi cần theo dõi nắm thông tin về tình hình dịch bệnh xảy ra trong khu vực/vùng, tình hình dự báo thời tiết và cảnh báo dịch bệnh của cơ quan chuyên môn để có biện pháp chủ động phòng tránh dịch bệnh.

– Đối với các cơ sở nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, tôm – lúa: tùy điều kiện cụ thể có thể lựa chọn áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp theo hướng dẫn tại mục này của văn bản sao cho phù hợp, khả thi với điều kiện nuôi thực tế.

c) Chống dịch:

– Bệnh không có biện pháp điều trị.

– Khi phát hiện tôm bị bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh, chủ cơ sở khai báo cho thú y cơ sở hoặc cơ quan thú y nơi gần nhất, đồng thời thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn về thú y thủy sản.

– Thông báo cho các cơ sở nuôi xung quanh để có các biện pháp phòng bệnh kịp thời tránh lây lan trên diện rộng.

– Tôm bệnh nếu đạt kích cỡ thương phẩm, có thể sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi hoặc các mục đích khác, trừ thủy sản làm giống hoặc thức ăn tươi sống cho thủy sản khác.

– Nêu tôm bệnh chưa đạt kích cỡ thu hoạch: Không vứt tôm mắc bệnh, chết, có dấu hiệu mắc bệnh ra môi trường; tiêu hủy động vật thủy sản mắc bệnh, thực hiện xử lý theo quy định hiện hành.

– Nước ao tôm bệnh: Phải được xử lý bằng Chlorine 30ppm hoặc hóa chất có công dụng tương đương có trong Danh mục thuốc thú y, hóa chất dùng trong thú y thủy sản được phép lưu hành tại Việt Nam. Sau 5 ngày mới được xả ra ngoài môi trường.

– Bùn đáy ao phải được xử lý đảm bảo không còn mầm bệnh.

– Bờ ao, công cụ dụng cụ, phương tiện chứa đựng tôm bệnh phải được vệ sinh, tiêu độc khử trùng.

– Các ao không bị bệnh: Tiến hành theo dõi chặt chẽ các chỉ tiêu môi trường, sức khỏe tôm, tăng cường chế độ chăm sóc quản lý nâng cao sức đề kháng cho tôm, thực hiện các biện pháp phòng bệnh.

– Có biện pháp hạn chế đối tượng chim, động vật trung gian truyền lây mầm bệnh từ ao bị bệnh và khu vực khác chưa có bệnh.

– Căn cứ vào tình hình thực tế và theo hướng dẫn của cơ quan chuyên ngành nuôi trồng thủy sản của địa phương để quyết định nuôi tiếp hay tạm dừng. Nếu nuôi tiếp, áp dụng Quy trình nuôi tôm nước lợ an toàn trong vùng dịch bệnh theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản.

Đặc biệt đối với người nuôi, cần chủ động áp dụng các biện pháp phòng, chống như hướng dẫn ở trên, đồng thời áp dụng các biện pháp nuôi, phòng trị bệnh hiệu quả, an toàn đối với con người và môi trường, có kế hoạch chủ động vật tư, thiết bị cần thiết; xử lý ao trước khi thả nuôi, trong quá trình thả nuôi và sau khi thu hoạch./.

ThS. Hồ Thành

 

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email