Bức tranh toàn cảnh về Di sản Thế giới hiện nay

Theo số liệu của UNESCO, tính đến tháng 1/2020, toàn thế giới đã có 1.121 di sản được công nhận danh hiệu Di sản thế giới (World Heritage), trong đó có 869 Di sản văn hóa, 213 Di sản thiên nhiên và 39 Di sản văn hóa và thiên nhiên (thường gọi là Di sản hỗn hợp). Đây là kết quả từ sự nỗ lực to lớn và không ngừng nghỉ của UNESCO và các quốc gia thành viên tham gia Công ước bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên trong gần nửa thế kỷ vừa qua (Công ước ra đời năm 1972). Việc công nhận danh hiệu Di sản thế giới không chỉ là hành động tôn vinh các di sản có giá trị nổi bật toàn cầu của các quốc gia, dân tộc mà còn có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc giáo dục và nâng cao ý thức bảo vệ di sản, bảo vệ văn hóa, môi trường tự nhiên, và cũng chính là môi trường sống của nhân loại.

Nhìn trên bản đồ Di sản thế giới, có thể thấy rõ các quốc gia châu Âu vẫn là những quốc gia dẫn đầu về số lượng di sản được công nhận, đặc biệt là các quốc gia có lịch sử lâu đời và có truyền thống bảo vệ, tôn vinh văn hóa, tiêu biểu như Italia, Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Nga, Hy Lạp… Ở châu Á, những quốc gia nổi tiếng với nền văn minh lâu đời cũng là những quốc gia dẫn đầu về số lượng di sản được công nhận, tiêu biểu như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ. Cũng tương tự, ở châu Mỹ là các quốc gia Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Braxin…

Theo bảng xếp hạng mới nhất, 10 quốc gia có số lượng Di sản thế giới được UNESCO công nhận nhiều nhất đến nay là:

  1. Italia: 55 di sản, trong đó có 50 di sản văn hóa và 5 di sản thiên nhiên;
  2. Trung Quốc: 55 di sản, trong đó có 37 di sản văn hóa, 14 di sản thiên nhiên và 4 di sản hỗn hợp;
  3. Tây Ban Nha: 48 di sản, trong đó có 42 di sản văn hóa, 4 di sản thiên nhiên và 2 di sản hỗn hợp;
  4. Đức: 46 di sản, trong đó có 43 di sản văn hóa và 3 di sản thiên nhiên;
  5. Pháp: 45 di sản, trong đó có 39 di sản văn hóa, 5 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp;
  6. Ấn Độ: 38 di sản, trong đó có 30 di sản văn hóa, 7 di sản thiên nhiên và 1 di sản hỗn hợp;
  7. Mexico: 35 di sản, trong đó có 27 di sản văn hóa, 6 di sản thiên nhiên và 2 di sản hỗn hợp;
  8. Vương quốc Anh: 32 di sản, trong đó có 27 di sản văn hóa, 4 di sản thiên nhiên và 1 di sản hỗn hợp;
  9. Nga: 29 di sản, trong đó có 18 di sản văn hóa và 11 di sản thiên nhiên;
  10. Hoa Kỳ: 24 di sản, trong đó có 11 di sản văn hóa, 12 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp.

Còn nếu kể trong Top 20 quốc gia nhiều di sản được UNESCO công nhận nhất thì có thêm: Iran (24 di sản), Nhật Bản (23 di sản), Braxin (22 di sản), Canada (20 di sản), Úc (20 di sản), Thổ Nhĩ Kỳ (18 di sản), Hy Lạp (18 di sản), Bồ Đào Nha (17 di sản), Ba Lan (16 di sản), và Thụy Điển (15 di sản).

Đền Taj Mahal (Ấn Độ)

Nhà thờ Đức Bà Paris (Pháp)

     Ở Đông Nam Á, quốc gia dẫn đầu về số lượng di sản thế giới là Indonexia với 9 di sản, Việt Nam đứng thứ 2 với 8 di sản được công nhận (5 Di sản văn hóa, 2 di sản thiên nhiên và 1 di sản hỗn hợp). Tiếp theo là Philippin có 6 di sản được công nhận, Thái Lan có 5 di sản, Malaysia có 4 di sản, Lào có 3 di sản, và Singapore có 1 di sản.

Về di sản phi vật thể (Intangible Cultural Heritage), năm 2001, UNESCO bắt đầu ghi danh các di sản phi vật thể với danh hiệu: Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (từ năm 2008, đổi tên gọi là Di sản phi vật thể đại diện), và ngay trong đợt đầu tiên này đã có 19 di sản được đưa vào danh mục. Năm 2003, Công ước di sản phi vật thể được thông qua và ban hành; cùng năm này đã có thêm 28 di sản phi vật thể được ghi danh. Đến nay, toàn thế giới đã có 213 di sản phi vật thể được ghi vào Danh mục, trong đó khu vực châu Á- Thái Bình Dương dẫn đầu với 102 di sản, châu Âu và Bắc Mỹ có 57 di sản, châu Mỹ La Tinh có 30 di sản, châu Phi có 17 di sản, các nước Ả Rập có 11 di sản.

Việt Nam hiện nay đang sở hữu và đồng sở hữu 13 di sản phi vật thể, trong đó có 12 di sản đại diện và 1 di sản cần bảo vệ khẩn cấp (Ca Trù).

Từ năm 1994, UNESCO đưa ra Chương trình Ký ức thế giới để công nhận các di sản văn hóa dưới dạng tư liệu (Documentary Heritage), đến nay đã có hàng trăm di sản thuộc loại hình này đã được công nhận. Việt Nam hiện đã có 7 di sản tư liệu đã được UNESCO công nhận ở 2 cấp độ: thế giới và khu vực châu Á- Thái Bình Dương (3 di sản tư liệu thế giới là Mộc bản triều NguyễnChâu bản triều Nguyễn và Bia Tiến sỹ Văn Miếu Thăng Long; 4 di sản tư liệu khu vực châu Á- Thái Bình Dương là: Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm– Bắc Giang, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế– Thừa Thiên Huế, Mộc bản trường học Phúc Giang– Hà Tĩnh, và bản đồ Hoàng Hoa Sứ trình đồ– Hà Tĩnh).

Như vậy, nếu không tính đến các danh hiệu khác cũng do UNESCO công nhận như Công viên địa chất toàn cầu, khu dự trữ sinh quyển thế giới… thì đến nay Việt Nam đã có 28 di sản thuộc 3 loại hình (di sản vật thể, di sản phi vật thể và di sản tư liệu) được UNESCO công nhận, trong đó có 8 di sản vật thể, 13 di sản phi vật thể và 7 di sản tư liệu.

Cố đô Huế hiện nay đang sở hữu và đồng sở hữu 7 danh hiệu về di sản được UNESCO vinh danh, bao gồm 1 di sản vật thể (Quần thể di tích cố đô Huế, 1993), 3 di sản phi vật thể (Nhã nhạc -Âm nhạc cung đình Việt Nam, 2003; Thực hành tín ngưỡng thờ mẫu Tam Phủ, 2016; và Nghệ thuật hát Bài Chòi,2017), và 3 di sản tư liệu (Mộc bản triều Nguyễn, 2009; Châu bản triều Nguyễn, 2014; và Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, 2016).

Như vậy, Cố đô Huế chiếm đến 1/4 tổng số di sản được UNESCO công nhận tại Việt Nam, xứng danh là vùng đất của văn hóa, di sản. Ngày 10/12/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW về Xây dựng và phát triển Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong đó chỉ rõ: Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn hóa Huế, với đặc trưng văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan thân thiện với môi trường và thông minh. Đây là cơ hội tuyệt vời để cố đô Huế xây dựng, phát triển trên nền tảng bảo tồn và phát huy các kho tàng di sản văn hóa và thiên nhiên đồ sộ của mình./.

 

TS. PHAN THANH HẢI
Facebook
Twitter
LinkedIn
Email