Thừa Thiên Huế có hệ sinh thái sinh học phong phú và đa dạng, tạo nên nguồn dược liệu phong phú về chủng loại lẫn công dụng làm thuốc, nhưng hiệu quả kinh tế từ nguồn tài nguyên này vẫn còn thấp. Việc bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu trên địa bàn được các doanh nghiệp, tổ chức và người dân triển khai thực hiện thông qua hoạt động hợp tác, dự án tài trợNGUYỄN CÔNG HẬU bước đầu đã phát huy hiệu quả.
Hiệu quả từ dự án “Trường Sơn xanh”
Những năm gần đây, công tác bảo vệ và bảo tồn hệ sinh thái rừng của tỉnh có những kết quả khả quan, nâng độ che phủ rừng lên đến 60,67%. Nhiều hoạt động cải thiện sinh kế địa phương vùng đệm được thực hiện có hiệu quả, thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào công tác bảo tồn thiên nhiên. Đặc biệt, việc bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu trên địa bàn được các doanh nghiệp, tổ chức và người dân triển khai thực hiện thông qua các hoạt động hợp tác, dự án được tài trợ. Một trong những chương trình tài trợ, hợp tác điển hình là dự án “Trường Sơn xanh”, đã và đang phát triển chuỗi giá trị dược liệu có hiệu quả tại Thừa Thiên Huế bằng cách kiên trì thúc đẩy, tăng cường hợp tác công – tư – cộng đồng và vận động sự tham gia sâu của khối tư nhân. Những hoạt động chính của dự án là cải thiện sinh kế cho các cộng đồng địa phương phụ thuộc vào rừng thông qua biện pháp tiếp cận chuỗi giá trị và quan hệ đối tác với khu vực tư nhân.
Các tổ chức, dự án nước ngoài tham quan mô hình trồng cây dược liệu tại huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế)
Chính thức khởi động từ năm 2016 với mục đích bảo tồn trữ lượng các-bon hiện có, dự án “Trường Sơn xanh” do USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ) hỗ trợ tại hai tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên Huế, hướng đến việc bảo vệ tài nguyên rừng, đa dạng sinh học, phát triển miền núi, cũng như tăng cường bảo vệ môi trường trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu. Đến nay, trên địa bàn hai tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên Huế, Trường Sơn xanh đã thiết lập mối quan hệ đối tác với 10 tổ chức/công ty. Trong đó, Thừa Thiên Huế đã có các đôn vị như Công ty Hoa Nén, Công ty Liên Minh Xanh, Hội Thiên nhiên vì cuộc sống, Công ty Trà vả Lộc Mai… Trong mối quan hệ đối tác với Công ty Trà vả Lộc Mai (huyện Phú Lộc), dự án “Trường Sơn xanh” đã phối hợp, liên kết nhằm phát triển kinh tế từ mô hình trồng và phát triển các sản phẩm từ quả vả, nhằm giám áp lực vào rừng tự nhiên, đồng thời bảo tồn được nguồn gen quý của loài cây đặc trưng của vùng đất xứ Huế. Đến nay, đã có 235 hộ gia đình nằm trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Bạch Mã ở huyện Phú Lộc đã tham gia và được cải thiện sinh kế từ mô hình này.
Với mục tiêu “liên kết để phát triển kinh tế”, thông qua mô hình này, dự án “Trường Sơn xanh” đã thành lập được năm tổ hợp tác phục tráng cây vả, với sự tham gia của 75 hộ gia đình. Trong quá trình thực hiện, dự án đã hỗ trợ bà con 12 khóa tập huấn hướng dẫn kỹ thuật về lập kế hoạch hoạt động của tổ hợp tác, cùng các kỹ năng về chăm sóc, phục tráng, chiết cành, thu hái, sơ chế và bảo quản vả. Phó Giám đốc Dự án “Trường Sơn xanh” Đỗ Đăng Tèo cho biết: Với nỗ lực cải thiện sinh kế cho người dân khu vực vùng đệm, bảo tồn đa dạng sinh học của vườn quốc gia và khu bảo tồn, dự án Trường Sơn xanh đã không ngừng tìm kiếm các giải pháp, mô hình sinh kế thích hợp để nhân rộng. Cũng theo ông Tèo, trong quá trình thực hiện các mô hình thuộc dự án, “Trường Sơn xanh” đã đánh giá sự thành công sự trên sáu yếu tố then chốt, bao gồm: chất lượng cây giống, quy trình kỹ thuật, số lượng và chất lượng, hợp tác công – tư – cộng đồng, dịch vụ tài chính và thị trường. “Trường Sơn xanh” cũng đã thúc đẩy các giải pháp tăng cường sự hợp tác và nâng cao vai trò của khối tư nhân, nhất là cộng đồng người dân. Từ đó, thiết lập, duy trì mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi, đồng thời huy động các nguồn lực trong cộng đồng để nhân rộng các mô hình.
Từ kết quả vận hành thành công mô hình liên kết sản xuất này, các nông hộ đã biết nhiều hơn về giá trị kinh tế của cây vả. Số lượng đăng ký tham gia mở rộng diện tích vùng nguyên liệu cho Công ty Trà vả Lộc Mai ngày càng tăng. Bên cạnh đó, dự án “Trường Sơn xanh” cũng chú trọng việc hỗ trợ nâng cao năng lực cho Lộc Mai nhằm đảm bảo chuỗi giá trị từ quả vả được duy trì bền vững. Theo đó, Lộc Mai được hỗ trợ xây dựng quy trình sản xuất quả vả theo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quảng bá thương hiệu, xây dựng câu chuyện sản phẩm và tham gia các hội chợ giới thiệu sản phẩm.
Duy trì liên kết để khai thác tiềm năng
Tỉnh Thừa Thiên Huế có nguồn dược liệu rất đa dạng, từ dược liệu thực vật, động vật và khoáng chất, dược liệu rừng, gò đồi, đồng bằng, đầm phá đến dược liệu biển. Theo TS Hồ Thắng, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, tiềm năng bản địa các loài dược liệu trên địa bàn đã được các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có không ít các chương trình dự án khoa học công nghệ khảo sát đánh giá và thử nghiệm ở nhiều loại dược liệu quý hiếm. Một số sản phẩm dược liệu đã phát huy hiệu quả tiêu biểu như tràm gió, thiên niên kiện, ba kích, tinh bột nghệ… thu hút hàng trăm doanh nghiệp và cơ sở sản xuất tham gia.
Theo kết quả điều tra của các nhà khoa học, tại Thừa Thiên Huế có 1,126 loài cây thuốc, trong đó có nhiều cây dược liệu quý đã và đang được trồng, khai thác như tràm, hoắc hương, hương nhu trắng, hương nhu tía… Đây là kho tàng rất lớn để tạo ra các sản phẩm phục vụ chăm sóc sức khỏe và chữa trị bệnh tật. Thừa Thiên Huế là tỉnh đa dạng sắc tộc. Ngoài người Kinh, còn có các dân tộc Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Bru Vân Kiều, Pa Hy, Hoa, Mường, Thái và Tổ…. Mỗi dân tộc đều sử dụng dược liệu, nền văn hóa riêng. Đây cũng là kho tàng rất lớn để tạo ra các sản phẩm phục vụ chăm sóc sức khỏe, chữa trị bệnh tật và các dịch vụ du lịch văn hóa.
Cơ chế thông thoáng để phát triển công nghiệp hóa dược đã được hình thành khi Thừa Thiên Huế đã ban hành nhiều chương trình kế hoạch triển khai các hoạt động theo chương trình của Chính phủ. Tập trung tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực dược liệu cũng như đẩy mạnh các giải pháp phát triển sản phẩm nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ứng dụng công nghệ cao, tăng giá trị theo chuỗi sản phẩm hàng hóa. Chương trình mỗi địa phương, mỗi sản phẩm, trong đó có các sản phẩm dược liệu được nhân rộng.
Nghiên cứu, ứng dụng khoa học để xây dựng nguồn nguyên liệu đã mang lại hiệu quả bước đầu trong việc hình thành sản phẩm dược liệu trên địa bàn
Trước xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, dược liệu chính là nguồn nguyên liệu của nền công nghiệp tân dược trong tương lai. Việc triển khai mạnh mẽ nghiên cứu khoa học, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào xây dựng nguồn nguyên liệu và hiện đại hóa y học cổ truyền gắn với chương trình OCOP là yêu cầu tất yếu trong tình hình hiện nay. Thực tế cho thấy, Thừa Thiên Huế vẫn còn ít vùng nguyên liệu dược liệu và chưa có những mô hình quy mô lớn. Thế nên việc đầu tư, phát triển, sử dụng hiệu quả nguồn dược liệu trong tự nhiên và bảo tồn tài nguyên dược liệu nhằm góp phần cân bằng hệ sinh thái cũng đặt ra nhiều vấn đề.
Theo các nhà khoa học, thực tế đã có rất nhiều bài học về phát triển cây dược liệu. Không ít doanh nghiệp lớn đầu tư nhưng cuối cùng đều tháo chạy sau khi thua lỗ hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Người dân tham gia nhiệt tình nhưng do không có tổ chức và không có sự định hướng, quy hoạch cụ thể của Nhà nước nên hiệu quả không đạt như mong muốn. Nhà nước thường muốn làm lớn ngay từ đầu nhưng lại không xử lý được vấn đề về thị trường tiêu thụ. Còn các nhà khoa học thì lại tách mình ra khỏi cộng đồng, khỏi nhu cầu thực tiễn cuộc sống và tự nghiên cứu từ đề tài này sang đề tài khác.
Tại hội thảo phát triển vùng nguyên liệu và các sản phẩm dược liệu gắn với chương trình OCOP – mỗi xã một sản phẩm ở tỉnh Thừa Thiên Huế, PGS.TS. Trần Văn Ơn, chuyên gia Chương trình OCOP Quốc gia cho rằng: “Trong OCOP bao giờ cũng có mục xây dựng câu chuyện sản phẩm và hỗ trợ người dân cách xây dựng câu chuyện sản phẩm. Thừa Thiên Huế có thế mạnh về cây tràm gió. Loại cây này có lịch sử gắn bó với vùng đất này lâu dài, là yếu tố để Thừa Thiên Huế xây dựng câu chuyện hay về loài cây này, từ đó tập trung làm bật thương hiệu cây tràm gió. Nếu không kể được câu chuyện đó, khiến tinh hoa của cây tràm gió bị lẫn lộn với các loại tràm khác, thì việc xây dựng và khẳng định giá trị thương hiệu riêng có của tràm gió vô cùng khó”..
Nhiều ý kiến cho rằng, Thừa Thiên Huế muốn phát triển vùng nguyên liệu và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm dược liệu gắn với chương trình OCOP, thì cần lưu ý các vấn đề. Đó là duy trì tốt các mối liên kết, trong đó, xác định rõ đây là vấn đề lâu dài và có vai trò của Nhà nước. Một trong những giải pháp quan trọng đó là tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để giúp người dân và cộng đồng nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn, phát triển bền vững, ưu tiên sử dụng dược liệu trong nước, dùng các cây thuốc nam để chăm sóc sức khỏe. Tuyên truyền về giá trị gia tăng, hiệu quả kinh tế nhằm thúc đẩy việc nuôi trồng dược liệu góp phần phát triển kinh tế xã hội và chủ động nguồn nguyên liệu. Ngoài việc lấy những loại cây dược liệu đã là thế mạnh của địa phường làm mô hình điểm, cần tuyên truyền sâu rộng hơn về OCOP và khuyến khích người dân tham gia với nhiều loại cây dược liệu khác nữa; nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và cẩn trọng về độ lớn của thị trường.
Tỉnh Thừa Thiên Huế muốn biến các tiềm năng thành sản phẩm và dịch vụ OCOP một cách có hệ thống, các đơn vị cần tiến hành khảo sát tổng thể tài nguyên dược liệu – văn hóa – cảnh quan của địa phương, từ đó xác định các tiềm năng, hiện trạng phát triển, các vấn đề tồn tại và nguyên nhân, xác định các giải pháp triển khai phù hợp. Vận động các cộng đồng, doanh nghiệp, Hợp tác xã tại các địa phương tham gia chương trình OCOP; đồng thời thúc đẩy khởi nghiệp gắn với OCOP, như Thanh niên khởi nghiệp OCOP, Phụ nữ khởi nghiệp OCOP, từ đó tăng tính chủ động, sáng tạo của cộng đồng.
NGUYỄN CÔNG HẬU