Để đánh giá tính an toàn và hiệu quả, rút kinh nghiệm và xây dựng quy trình khoa học ứng dụng các kỹ thuật thuật can thiệp mạch điều trị bệnh lý mạch máu não và đột quỵ não, chúng tôi tiến hành đề tài với hai mục tiêu chính:
1. Đánh giá kết quả của kĩ thuật chụp mạch máu não xóa nền, kỹ thuật can thiệp mạch não trong điều trị bệnh lý mạch máu não và cấp cứu nhồi máu não cấp.
2. Tính an toàn, hiệu quả và tính khả thi triển khai các kỹ thuật chụp mạch máu não xóa nền, kỹ thuật can thiệp mạch não điều trị các bệnh lý mạch máu não và cấp cứu nhồi máu não cấp dưới máy DSA tại bệnh viện Trung ương Huế.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
– Đối tượng: Tất cả bệnh nhân được chụp mạch máu não DSA và can thiệp nội mạch điều trị các bệnh lý mạch não và đột quỵ từ tháng 4 năm 2014 đến tháng 6 năm 2016.
Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có theo dõi dọc tất cả các bệnh nhân được chụp và can thiệp mạch máu não từ thời điểm triển khai kỹ thuật tháng 4/2014 cho đến tháng 6/2016.
Thu thập số liệu:
– Thu thập các số liệu lâm sàng và cận lâm sàng cơ bản, cần thiết cho chẩn đoán, điều trị, theo dõi bệnh nhân có bệnh lý mạch máu não và đột quỵ.
– Thu thập số liệu kết quả chụp và can thiệp mạch não
– Thu thập số liệu kết quả theo dõi bệnh nhân sau chụp và can thiệp tới ngày thứ 30 và lâu dài.
Kết quả nghiên cứu:
Trong khoảng 26 tháng triển khai, trung bình mỗi tháng chúng tôi tiến hành hơn 12 trường hợp chụp mạch não DSA.
Qua chụp mạch não, tỉ lệ gặp nhiều nhất là phình mạch não và dị dạng động tĩnh mạch não (AVM não). Dò động mạch cảnh xoang hang cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể. Hẹp động mạch cảnh và các bệnh lý khác có tỉ lệ thấp hơn.
Bệnh nhân xuất huyết dưới nhện do vỡ phình mạch não hồi phục tốt sau can thiệp.
Không có tai biến và biến chứng nặng liên quan đến chụp mạch não. Có một trường hợp dò nhẹ động tĩnh mạch đùi tại vị trí đặt Sheath và tự lành sau 3 ngày, không để lại di chứng gì.
Đa số các trường hợp phát hiện túi phình mạch não là đã vỡ và gây xuất huyết dưới nhện. Một số trường hợp khác là tình cờ được phát hiện qua chụp mạch máu như CTA và MRA. Phình mạch não được phát hiện chủ yếu ở những bệnh nhân xuất huyết dưới nhện
Vị trí túi phình thường gặp nhất là ở động mạch thông trước và động mạch cảnh trong đoạn thông sau, chiếm hơn 3/4. Túi phình ở động mạch não giữa, động mạch đốt sống và động mạch thân nền ít gặp hơn.
Hầu hết các bệnh nhân sau xuất huyết dưới nhện có can thiệp bít túi phình đều có tiên lượng tốt. Mức độ không tàn tật và tàn tật nhẹ với mRS 0- 2 chiếm trên 60%, tàn tật vừa và nặng chiếm khoảng 30 %. Có một trường hợp tử vong do viêm phổi sau can thiệp đã đề cập ở trên.
Phát hiện AVM hầu hết trong bối cảnh bệnh nhân đã có biến chứng xuất huyết não do AVM vỡ. Một số trường hợp phát hiện dựa vào triệu chứng chứng lâm sàng hoặc có hình ảnh học học nghi ngờ (CT Scan, MRI).
Trên nhóm đối tượng của chúng tôi, triệu chứng lâm sàng cải thiện sau can thiệp nội mạch điều trị AVM bao gồm cải thiện tình trạng liệt nửa người, rối loạn cảm giác, đau đầu, động kinh.
Về dò động mạch cảnh xoang hang: Chiếm tỉ lệ lớn nhất là dò typ A hay dò trực tiếp động mạch cảnh xoang hang sau tai nạng giao thông. Các thể dò khác cũng có số lượng đáng kể.
Trong số các trường hơp này thì 42% được điều trị thành công với thả bóng Balt bít lỗ dò, 35% số trường hợp được điều trị bằng thả coil để tắc tĩnh mạch mắt và xoang hang bị dò.
Về điều trị nhồi máu não cấp. Chúng tôi đã tiến hành liệu pháp tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch trên 8 trường hợp đột quỵ nhồi máu não cấp đến viện trong vòng 3 giờ đầu. Triệu chứng của bệnh nhân cải thiện tốt sau 24 giờ. Điểm NIHSS cải thiện 3- 7 điểm sau 24 giờ và cải thiện rõ tại thời điểm xuất viện.
Chúng tôi đã thực hiện được 3 trường hợp đặt Stent điều trị hẹp động mạch cảnh ngoài sọ. Tất cả các trường hợp này đều hẹp động mạch cảnh trong nặng. Bệnh nhân có tiền sử đột quỵ nhồi máu não và tai biến mạch não thoáng qua nhiều lần.
Kết luận:
1. Các kĩ thuật chụp mạch não số hóa xóa nền và can thiệp nội mạch cho tỉ lệ chẩn đoán, thành công và hiệu quả cao đối với các bệnh lý mạch máu não và đột quỵ nhồi máu não cấp. Đây là những kĩ thuật hiện đại mà các nước trên thế giới cũng như một số bệnh viện tại Việt Nam đang triển khai nhằm điều trị tốt các bệnh lý mạch máu não và đột quỵ não.
2. Với đầy đủ các phương tiện hiện đại tại Bệnh viện Trung Ương Huế và đội ngũ nhân lực đã được đào tạo, huấn luyện bài bản, việc triển khai các kĩ thuật trên cho thấy an toàn, ít biến chứng và có tính khả thi cao.
TS.BS. Tôn Thất Trí Dũng – Bệnh viện Trung ương Huế