Trần Nhân Tông

Dưới đây là bài viết của GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam giới thiệu cho cuốn sách về Trần Nhân Tông sắp được xuất bản. Nhân dịp kỷ niệm 750 năm ngày sinh và 700 năm ngày mất của Trần Nhân Tông, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết này – BBT.

Vua Trần Nhân Tông sinh năm 1258, lên ngôi Hoàng đế năm 1278. Theo chế độ đặc biệt của vương triều Trần, vua cha là Trần Thánh Tông làm Thái Thượng hoàng cho đến khi mất năm 1290. Đây là thời gian vua Trần Nhân Tông nắm quyền trị vì cùng Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông lo toan việc nước. Đây cũng là thời gian nước Đại Việt phải đương đầu với một thách thức vô cùng hiểm nguy quyết định sự tồn vong của đất nước. Đó là cuộc xâm lược năm 1285 và năm 1287-1288 của đế chế Mông Nguyên với số lượng quân viễn chinh huy động cao nhất và với những thay đổi trong chiến lược quân sự nhằm quyết tâm đánh chiếm nước Đại Việt để mở đường bành trướng xuống Đông Nam Á.

Nói đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên, mọi người đều biết đến tài năng quân sự kiệt xuất và công lao to lớn của vị Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự đã được sử sách ghi nhận và nhân dân đời đời tôn vinh như một vị Thánh với danh hiệu “Đức Thánh Trần”. Nhưng thật là bất công nếu chúng ta không thấy hết vai trò của triều đình, đặc biệt là người đứng đầu vương triều, cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia. Đó là vị Hoàng đế trẻ tuổi Trần Nhân Tông (khi lãnh đạo cuộc kháng chiến năm 1285 và 1287-1288, nhà vua ở tuổi 28-31) và Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Chính vua Trần Nhân Tông, năm 1283, đã tiến phong Trần Quốc Tuấn làm “Quốc công tiết chế thống lĩnh thiên hạ chư quân sự”. Và cũng chính nhà vua cùng Thái Thượng hoàng và triều đình trên cương vị quản lý quốc gia đã lo chuẩn bị cho cả nước đánh giặc, toàn dân đánh giặc, lo phát triển kinh tế, củng cố an ninh chính trị xã hội, lo xây dựng lực lượng quấn sự, tạo nên sức mạnh chiến thắng mà sau này Trần Quốc Tuấn đã tổng kết là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức”. Trong một số trường hợp cần thiết, để động viên quân sĩ và góp sức vào cuộc chiến, nhà vua cũng trực tiếp cầm quân đánh giặc như tiếp ứng cho trận Vạn Kiếp, chặn địch vượt sông Nhị, cùng Thượng hoàng đánh trận Trường Yên, Tây Kết trong kháng chiến năm 1285, hay nhà vua cùng Thượng hoàng đem quân tiếp ứng cho trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288.

Trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng Trần Thánh Tông xứng đáng là những vị vua anh hùng.

Sau khi Thượng hoàng mất, từ năm 1290 đến năm 1293, vua Trần Nhân Tông một mình điều hành triều chính. Năm 1293, nhà vua nhường ngôi cho con là vua Trần Anh Tông, lui về phủ Thiên Trường (Nam Định) làm Thái Thượng hoàng, nhưng vẫn cố vấn và giám sát nhà vua. Vốn rất tôn sùng đạo Phật, năm 1299, nhà vua xuất gia, lên núi Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Từ đó nhà vua mang pháp danh là Điều Ngự Đầu Đà hay Hương Vân Đại Đầu Đà, thưòng gọi là Điều Ngự Giác Hoàng. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông sáng lập mang tính nhập thế, tính dân tộc, tính nhân bản rất cao và do uy tín của Trúc Lâm đệ nhất tổ nên đã qui tụ được mọi tông phái Phật giáo Đại Việt thành như một tổ chức Phật giáo thống nhất của cả nước.

Tuy xuất gia nhưng Điều Ngự Giác Hoàng vẫn lo toan vận nước, từ núi Yên Tử “thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm” (Ngô Thì Nhậm, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh). Thời chống Mông Nguyên, nhà vua đã xây dựng được quan hệ đoàn kết chiến đấu với vương triều Chămpa. Năm 1282, nhà vua không những đã từ chối yêu sách của nhà Nguyên đòi cho mượn đường và cung cấp lương thực cho quân Nguyên xâm lược Chămpa, mà còn phái quân đội vào trợ giúp cho cuộc chiến đấu của Chămpa chống Nguyên dưới sự lãnh đạo của vua Indravarman V và hoàng tử Sri Harijit. Thắng lợi của cuộc kháng chiên chống Nguyên năm 1282-1283 của Chămpa biểu thị quan hệ đồng minh chiến đấu rất đẹp của hai nước Đại Việt-Chămpa do vua Trần Nhân Tông kiến tạo. Để tiếp tục củng cố và phát huy mối quan hệ hòa hiếu đó, năm 1301, nhà vua với cương vị một đại sư đã vân du nhiều nơi rồi sang thăm Chămpa đi và về trong 8 tháng. Lúc này Hoàng tử Harijit đã lên ngôi vua, tức vua Jaya Sinhavarman IV mà sử ta thường chép là vua Chế Mân. Chính trong cuộc viếng thăm đặc biệt này, nhà vua đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân. Cuộc hôn nhân đó đã được thực hiện năm 1306, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân và vua Chămpa đem hai châu Ô Lý làm lễ vật dẫn cưới. Một quyết sách ngoại giao của Thượng hoàng Trần Nhân Tông sau khi xuất gia đã được thực thi không phải chỉ dẫn đến sự mở rộng lãnh thổ về phía nam, thêm hai châu Thuận và châu Hóa, mà kết quả quan trọng bậc nhất là thắt chặt quan hệ bang giao tin cậy giữa hai nước láng giềng.

Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ, nhà văn, nhà văn hóa lớn của đất nước. Tác phẩm còn lưu truyền lại đến nay gồm có những bài thơ còn được chép lại trong Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên và Chu Xa sưu tầm, trong Nam Ông mộng của Hồ Nguyên Trừng, Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn; đặc biệt hai bài phú chữ nôm mang tên Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, cùng bài văn Thượng sĩ hành lục viết về tiểu sử Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung in trong sách Thượng sĩ ngự lục, và một số bài giảng về đạo Phật chép lại trong Thánh đăng ngự lục và Tam tổ thực lục. Tác phẩm nói lên tấm lòng yêu nước, yêu thiên nhiên, niềm tự hào dân tộc và triết lý Phật học uyên bác của nhà vua. Vua Trần Nhân Tông là một vị Vua-Bụt, một nhà văn hóa lớn của dân tộc.

Vì vậy tíếp theo sau Hội thảo “Trần Nhân Tông với di sản văn hóa Yên Tử” do Trung tâm UNESCO nghiên cứu ứng dụng Phật học Việt Nam tổ chức tại Uông Bí (Quảng Ninh) ngày 22-23/6/2001, Hội thảo “Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông (1258-1308)” do trường Đại học Khoa học Huế tổ chức ngày 30/12/2003 tại Huế, đã góp phần quan trọng tạo lập một nhận thức mới về vua Trần Nhân Tông, xác định và tôn vinh những cống hiến lớn lao của nhà vua đối với lịch sử và văn hóa dân tộc.

Hà Nội, mùa thu năm Mậu Tý-2008

GS. Phan Huy Lê

Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

Ghi chú: Đầu đề do BBT đặt.

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email