Tác giả: Trần Như
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là một bộ sách được biên soạn dưới triều Nguyễn theo thể loại Hội điển. Thể loại này được đặt ra nhằm ghi chép lại các điển pháp, quy chuẩn và các dữ liệu liên quan đến tổ chức vào hoạt động của một triều đại. Châu bản triều Nguyễn là tài liệu có bút tích của nhà vua phê duyệt chi tiết về mọi vấn đề của đất nước.
Trong lịch sử của chế độ quân chủ ở Việt Nam, mỗi một triều đại được dựng nên đều cố tổ chức biên soạn Hội điển của triều đại mình. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là một công trình có quy mô thuộc loại đồ sộ nhất trong kho tàng thư tịch cổ viết bằng chữ Hán của Việt Nam, bộ sách do Nội các triều Nguyễn biên soạn vào giữa thế kỷ XIX. Châu bản triều Nguyễn là các văn bản hành chính được hình thành trong quản lý nhà nước của triều Nguyễn (1802-1945) do hoàng đế ban hành. Đây là khối tài liệu lưu trữ quý hiếm, nội dung phản ánh tương đối đầy đủ, toàn diện về các hoạt động chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội dưới triều Nguyễn.
Nhân dịp đón Xuân Giáp Thìn, đọc lại phần lễ bộ được viết trong Quyển 70 về các tiết Triều hội tại Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, cụ thể là Tiết Nguyên đán và Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức để hiểu thêm về phần nghi thức trong dịp Tết dân tộc trong triều Nguyễn.
Theo quy định của vua Gia Long, mỗi năm đến Tết Nguyên đán, nhà vua sẽ ngự ở điện Thái Hoà, đặt đại triều, bách quan làm lễ khánh hạ. Các năm thứ 11, 14 dịp Tết Nguyên đán miễn lễ triều hạ cho bách quan do gặp tang của Hiếu Khang hoàng Thái hậu và tang Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Năm vua Gia Long thứ 17, vua ban dụ từ nay về sau, ngày Tết chánh đán làm lễ khánh hạ, vua ngự điện Thái Hoàn, khi thăng toạ, phát 9 tiến ống lệnh (các lễ khi vua ngự điện Thái Hoà đều làm như thế).
Mộc bản Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
Theo Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 163 từ năm Gia Long thứ năm (1806), lễ diễn ra tại điện Thái Hòa, đến thời vua Thiệu Trị, lễ được tổ chức tại Ngọ Môn. Ban đầu, lịch được gọi là Vạn toàn, sau đó chuyển sang Hiệp kỷ. Lịch được phân thành nhiều loại: Ngự lịch – loại chép tay, chỉ có một bản dâng lên vua; Quan lịch – bản ban phát cho các quan, dân; Long phụng lịch – bản đặc biệt để thờ tại Thái miếu, Thế miếu… Đây được xem là biểu tượng năm mới, niềm vui mà triều đình mang đến cho muôn dân dịp Tết.
Thời vua Minh Mạng, năm thứ 1, tiết Nguyên đán miễn lễ triều hạ cho bách quan, nhưng mọi người mặc thường phục đến điện Cần Chánh để chiêm bái. Năm thứ 3, hôm ấy thánh giá ra Bắc đã trở về, sáng sớm nhà vua kính đến điện Hoàng Nhân yết bái, rồi đến cung Từ Thọ mừng sức khoẻ. Buổi chiều, nhà vua ngự điện Cần Chánh để nhận lễ mừng. Năm thứ 4, ngày Tết Nguyên đán, đặt nghi lễ đại triều ở điện Thái Hoà, bách quan đến làm lễ khánh hạ theo như nghi lễ. Năm thứ 20, trùng với năm gặp lễ ngũ tuần đại khánh[1] nên lễ khánh hạ ngày Nguyên đán thêm tiết mục xưng hô, được cử hành sau khi phân ban.
Lễ Ban sóc dưới triều Nguyễn. Nguồn: Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế
Năm thứ 1, thời vua Thiệu Trị theo lời nghị, chuẩn: Trong 3 năm quốc tang (vua Minh Mạng mất), lễ khánh hạ về Tết Nguyên đán ngự tiền và các địa phương dâng biểu chúc mừng đều cho miễn. Năm thứ 2, vua cho chỉ dụ: “Nay cử bộ Lễ xin về việc tiết Nguyên đán, sang năm đặt nghi lễ thường triều ở điện Cần Chánh, hoàng tử, hoàng thân, bách quan văn võ đều mặc triều phục vào chiêm bái. Đầu xuân năm mới, lòng phần tử thành thực chúc mừng, như thế cũng là phải. Nhưng trẫm nghĩ: Hôm ấy, quốc tang còn ở trong kỳ tế Đàm, vội thiết triều, chúc mừng, trong lòng thật thấy chưa yên. Nay chuẩn cho hôm ấy làm lễ khánh hạ ở cung Từ Thọ xong, trẫm ngự thiện điện Cần Chánh, chuẩn cho hoàng tử, hoàng thân, bách quan văn võ đều mặc thường phục (đồ đẹp) vào sân chiêm bái, thế cũng đủ thoả lòng thành kính. Còn việc xin đặt thường triểu, bày ban làm lễ lạy mừng thì hãy đình miễn, để cho đúng với ý nghĩa về lễ”. Năm thứ 3, theo nghị, chuẩn, Tết Nguyên đán, vua ngự điện Thái Hoà, các hoàng thân, bách quan làm lễ khánh hạ đúng theo nghi thức.
Triều đại vua Tự Đức, năm thứ 1, Tết Nguyên đán nhà vua ngự điện Văn Minh, các hoàng thân, bách quan đều mặc thịnh phục làm lễ 5 lạy. Trong 3 ngày Tết, các hoàng thân và bách quan tới hầu, hay làm việc ở nhà đều bận áo, khăn màu lam sẫm. Năm thứ 2, vua có dụ: “Hàng năm về tiết Nguyên đán, theo lệ có thiết triều nhận lễ mừng và ban thưởng cho các quan tiệc yến, phẩm vật đều có thứ bậc. Đầu năm cầu phúc, xuân mới ban ân, phẩm vật có thứ bậc. Đầu năm cầu phúc, xuân mới ban ân, đó là lễ thường” và “Năm nay, trong ngày cuối thu sang đông, các địa phương bỗng gặp dịch lệ lưu hành, trẫm nghĩ đến dân bị nạn, thức ngủ không yên, nhiều lần đã xuống dụ cấp thầy thuốc điều trị, lập đàn lễ cầu trừ, hiện nay gần đây tạm được yên lành, trẫm đang kinh sợ, cảm động, cáng gắng sức xét mình”. “Lễ Tết Chánh án sang năm, các khoản triểu hạ ban yến, ban phẩm vật đều cho đình chỉ để tỏ ý kính trời”.
Châu bản triều Nguyễn
Sự việc này sử sách cũng ghi lại trường hợp vua cho dừng việc thiết triều chúc Tết và ban yến. Theo Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 11, tờ 385: “Sáng ngày mùng một Tết năm tới có nhật thực, nay lại đang có dịch bệnh lưu hành. Vì vậy, thiết triều chúc Tết và ban yến ngày mùng một Tết năm mới đều truyền cho đình chỉ”. Đến năm thứ 4, Tết Nguyên đán, nhà vua ngự điện Thái Hoà, các hoàng thân và bách quan làm lễ khánh hạ theo như nghi lệ.
Các nhạc công trong trang phục ngày lễ. Nguồn: Internet
Có thể thấy, Tết Nguyên đán trong hoàng cung diễn ra với nhiều nghi lễ thiêng liêng, đặc biệt, mang ý nghĩa tống tiễn hết điều xấu của năm cũ để đón điều tốt đẹp của năm mới đến./.
[1] Mừng thọ vua 50 tuổi