Một số phát hiện mới về di tích Núi Bân- Đàn Nam Giao thời Tây Sơn qua khai quật khảo cổ học

Tác giả: TS. Phan Thanh Hải

Sáng ngày 29/7/2022, Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp với Bảo tàng Lịch sử quốc gia tổ chức Hội nghị báo cáo sơ bộ kết quả khảo cổ học di tích Núi Bân- đàn Nam Giao thời Tây Sơn. Tham gia hội nghị, về phía Bảo tàng Lịch sử Quốc gia có TS. Nguyễn Văn Đoàn, Giám đốc Bảo tàng, Nhà khảo cổ học Nguyễn Chất, Trưởng đoàn khảo cổ học của bảo tàng LSQGVN cùng các thành viên của đoàn công tác. Về phía Sở Văn hóa & Thể thao có TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở và các cán bộ chuyên môn liên quan. Khách mời có PGS.TS Đỗ Bang, PCT Hội KHLS Việt Nam; NNC Nguyễn Xuân Hoa, NNC Trần Đại Vinh, Ths. Lê Duy Sơn, TS. Nguyễn Văn Quảng, TS. Huỳnh Thị Anh Vân, TS. Lê Thị An Hòa…

Núi Bân, còn có các tên gọi khác là Hòn Thiên (Thiêng), núi Ba Tầng, núi Ba Vành… nằm ở phía Nam núi Ngự Bình vốn là một danh thắng của xứ Huế, cao 43m. Cuối năm 1788, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ đã tổ chức lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung tại đây, sau đó kéo quân ra Bắc đánh tan đội quan xâm lược gồm hàng vạn tên của triều Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu.

Khác hẳn với các dấu tích liên quan đến triều đại Tây Sơn khác tại Huế hầu như đã bị hủy hoại, trong suốt gần 100 năm qua, di tích núi Bân lại được các chính quyền các chế độ khác nhau xếp hạng và đưa vào diện cần bảo vệ. Năm Khải Định thứ 10 (1925), triều Nguyễn đã đưa ngọn núi này vào danh mục “An Nam cổ tích” cần được bảo tồn[1]. Năm 1976, Ủy ban nhân dân cách mạng Bình Trị Thiên đã có quyết định số 99 QĐ (19/5/1976), đưa “núi Ba Vành” vào “Danh sách các Di tích Lịch sử Văn hóa Nghệ thuật và danh thắng được liệt hạng để bảo vệ”. Năm 1988, di tích núi Bân được công nhận là Di tích cấp quốc gia và đến năm 2008 đã có một dự án chỉnh trang, tôn tạo di tích này cùng với việc xây dựng quảng trường và tượng đài của Hoàng đế Quang Trung với tổng diện tích hơn 25.000m2 ngay bên cạnh đó. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là khi triển khai dự án chỉnh trang núi Bân, các nguồn tư liệu còn thiếu, lại chưa tiến hành thám sát, khai quật khảo cổ học nên các căn cứ khoa học chưa đầy đủ. Vì vậy, kết quả tôn tạo di tích vẫn còn một số điểm hạn chế, bất cập.

Núi Bân trước khi được tu bổ, tôn tạo vào năm 2008 là địa điểm chôn cất, xây dựng mồ mả của nhân dân địa phương với mật độ dày đặc từ chân núi tới đỉnh núi (tầng 3 đàn tế) ở cả 4 phía Đông, Tây, Nam, Bắc…, trừ góc phía Tây Bắc thuộc phạm vi quản lý của Bảo tàng Hồ Chí Minh tỉnh Thừa Thiên Huế và gia đình ông Hồ Văn Toàn có mật độ xây dựng các ngôi mộ khá thưa thớt.

Hiện nay, Núi Bân nằm ở tọa độ 1626’35’’ vĩ Bắc, 10735’37’’ kinh Đông, gồm có 3 tầng được tạo theo kiểu 3 hình nón cụt chồng lên nhau, chu vi các tầng trên nhỏ hơn chu vi các tầng dưới liền kề: Tầng 1 (tầng dưới cùng) có mặt nền rộng không đều nhau: phía Đông rộng khoảng 9m, phía Tây rộng khoảng 10,5m, phía Bắc rộng khoảng 11m, phía Nam rộng khoảng 12m và một tầng phụ ở góc Tây Nam rộng từ 3m đến 10m; Tầng 2 cao hơn tầng 1 từ 1,5m đến 2m, mặt phía Đông rộng khoảng 10m, phía Tây rộng khoảng 10,5m, phía Bắc rộng khoảng 8,5m, phía Nam rộng khoảng 10,5m; Tầng 3 (tầng trên cùng) hình gần tròn, cao trung bình từ 1,4m đến 1,6m so với mặt nền tầng 2, đường kính chiều Đông – Tây là 16m, chiều Bắc – Nam là 19m. Nối thông các tầng, ở bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi tầng đều xây 4 bậc cấp lên xuống  bằng đá núi, vữa xi măng cát, thành bậc xây bằng gạch hiện đại và 4 đường lên xuống rộng 4,2m, bó vỉa bằng gạch hiện đại, mặt đường láng nề bằng vữa xi măng cát. Các bậc cấp đều không chuẩn hướng. Chạy bao quanh chân núi và kết nối bậc cấp của các tầng đàn tế là con đường rộng 2m, nối với Khu tượng đài vua Quang Trung ở phía Đông. Xung quanh từ chân tầng 1 đàn tế hiện nay trở xuống chân núi được trồng các loại cây thông, tràm.. và các bụi cây hoang dại mọc tự nhiên…phủ kín.

Việc triển khai công tác khai quật khảo cổ học di tích núi Bân nhằm mục đích bổ sung các căn cứ khoa học đáng tin cậy nhằm xây dựng hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận di tích này trở thành Di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Sau gần một tháng triển khai, Đoàn khảo cổ học đã thám sát và khai quật 9 hố đào với tổng diện tích 140m2. Các hố đào mở ở cả 4 hướng: đông, tây, nam, bắc. Kết quả đã nhận diện rõ đàn tế nguyên gốc thời Tây Sơn gồm 3 tầng hình nón cụt chồng lên nhau, đàn tế này có quy mô rộng hơn và thấp hơn từ 04,m – 0,6m so với hiện trạng hiên nay của đàn tế tại núi Bân (qua lần chỉnh trang năm 2008).

Ngoài việc làm phát lộ rõ ràng chính xác mặt nền và cấu trúc nguyên gốc của 3 tầng đàn tế hình tháp cụt chồng lên nhau, Đoàn khảo cổ học còn phát hiện 3  đoạn móng kè phía Tây Nam ở tầng dưới cùng chạy theo hướng bắc-nam, trong đó có một móng gạch dài 1,1m; hai đoạn móng đá, một đoạn dài 2,2m, một đoạn dài 5,1m. Dự đoán, đây có khả năng là phần bó chân móng của một tầng đàn tế hình vuông-tức tầng đế của đàn tế. Nếu giả thiết này chính xác thì đàn tế Giao thời Tây Sơn là một đàn tế trời được quy hoạch, xây đắp khá bài bản (dù lợi dụng một ngọn núi tự nhiên sẵn có), có cấu trúc gần tương tự đàn Viên Khâu ở Thiên Đàn Bắc Kinh (đàn tế trời của hai triều Minh, Thanh ở Trung Quốc) với 1 tầng đàn vuông ở dưới và 3 tầng đàn tròn bên trên.

Tại hội nghị, các chuyên gia đã đóng góp nhiều ý kiến bổ ích và đều nhất trí đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục cấp kinh phí và tạo điều kiện để mở rộng công tác khai quật khảo cổ học nhằm xác định chính xác cấu trúc, quy mô của đàn tế Giao thời Tây Sơn. Từ đó tập hợp đầy đủ các nguồn tư liệu, căn cứ khoa học phục vụ cho việc xây dựng hồ sơ di tích cấp quốc gia đặc biệt và dự án bảo tồn, chỉnh trang đàn tế Giao thời Tây Sơn trong giai đoạn tới./.

[1] Đây là điều rất đặc biệt, vì trước đến nay có nhiều ý kiến cho rằng triều Nguyễn đã tìm mọi cách tiêu hủy tất cả các dấu tích về triều đại Tây Sơn. Tuy nhiên, trên thực tế lại không phải như vậy.

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email