Sử dụng kháng sinh trong điều trị MRSA gây nhiễm trùng da và mô mềm

Tác giả: Trần Đình Bình, Nghiêm Thị Thuỳ Linh

Bộ môn Vi sinh, Trường Đại học Y-Dược, Đại học Huế

Khoa Dược, Bệnh viện Viêt Nam-Cu Ba Đồng Hới, Quảng Bình

TÓM TẮT

MRSA trở thành vấn đề toàn cầu khi tỷ lệ xuất hiện ngày càng nhiều trong các mẫu bệnh phẩm phân lập được S.aureus.

Có thể sử dụng vancomycin, daptomycin hoặc linezolid đường tĩnh mạch cho nhiễm trùng da và mô mềm nặng. Cần tránh liệu pháp đường uống trong điều trị khởi đầu cho nhiễm trùng nặng. Clindamycin, trimethoprim–sulfamethoxazole và doxycyclin là liệu pháp thay thế cho điều trị nhiễm trùng da và mô mềm nhẹ và trung bình dựa trên kháng sinh đồ. Với áp xe da không biến chứng, sử dụng clindamycin hoặc trimethoprim– sulfamethoxazol kết hợp với rạch da và dẫn lưu giúp cải thiện tỷ lệ khỏi lâm sàng ở khoa cấp cứu và các phòng khám ngoại trú. Trong bối cảnh số lượng vancomycin được kê đơn tăng trên lâm sàng, vancomycin cần được giám sát sử dụng tại bệnh viện nhằm tránh tạo ra tình trạng kháng vancomycin.

Từ khoá: S.aureus, MRSA, Vancomycin, nhiễm trùng da và mô mềm

ABSTRACT

USE OF ANTIBIOTICS IN TREATMENT OF MRSA CAUSING SKIN AND SOFT TISSUE INFECTION

MRSA has become a global problem as it appears more and more frequently in clinical samples isolated from S.aureus.

Intravenous vancomycin, daptomycin, or linezolid may be used for severe skin and soft tissue infections. Oral therapy should be avoided in the initial treatment of severe infections. Clindamycin, trimethoprim–sulfamethoxazole, and doxycycline are alternative therapies for the antibiogram-based treatment of mild to moderate skin and soft tissue infections. For uncomplicated skin abscesses, use of clindamycin or trimethoprim–sulfamethoxazole in combination with skin incision and drainage improves clinical cure rates in the emergency department and outpatient clinics. In the context of increased clinical prescriptions of vancomycin, vancomycin use needs to be monitored in hospitals to avoid creating vancomycin resistance.

Keywords: S.aureus, MRSA, Vancomycin, skin and soft tissue infections

I. MỞ ĐẦU

Staphylococcus aureus (S. aureus: Tụ cầu vàng) là một loại vi khuẩn thường được tìm thấy trên da người, mũi họng, hâu họng…. Vi khuẩn tụ cầu vàng là thành viên của khuẩn chí bình thường (Microbiota) trên cơ thể, chúng thường vô hại, nhưng chúng có thể gây nhiễm trùng nghiêm trọng dẫn đến nhiễm trùng huyết hoặc tử vong. MRSA là viết tắt của Staphylococcus aureus kháng methicillin, một loại vi khuẩn kháng kháng sinh rất mạnh [1], [2].

Có khả năng vi khuẩn Staphylococcus aureus (S. aureus) đã đồng hành cùng nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử. Nó là tác nhân gây ra nhiều bệnh phổ biến cho xã hội loài người từ xa xưa cho đến ngày nay, trong đó các nhiễm trùng da, mô mềm chẳng hạn như chốc lở, nhọt và áp xe rất là thường gặp. Những quan sát được công bố đầu tiên về nhiễm trùng S. aureus được thực hiện bởi Ogston từ năm 1880 đến 1882 [3]. Việc điều trị các bệnh nhiễm trùng này bị hạn chế cho đến năm 1896 khi một sinh viên y khoa người Pháp, Ernest Duchesne, quan sát thấy rằng các khuẩn lạc của S. aureus có thể bị tiêu diệt bởi nấm mốc Penicillium notatum. Quan sát này được nhà vi khuẩn học Alexander Fleming khám phá lại vào năm 1928. Tiến sĩ Fleming đã công bố kết quả điều tra của ông vào năm 1929, lưu ý rằng khám phá của ông có thể có giá trị chữa bệnh nếu nó có thể được sản xuất với số lượng lớn. Mười năm sau, việc chiết xuất penicillin hạn chế được bắt đầu tại Đại học Oxford. Năm 1943, việc sản xuất “thần dược” trên quy mô lớn bắt đầu ở Hoa Kỳ [4]. Bốn năm sau, các trường hợp Staphylococcus aureus kháng Penicillin (Penicillin Resistance Staphylococcus aureus: PRSA) đã được quan sát thấy. Kể từ thời điểm đó, cuộc đua giành chiến thắng trong cuộc chiến giữa Staphylococcus aureus và các nhà khoa học trở nên gay gắt. Năm 1959, methicillin được phát hiện để chống lại sự phát triển và lây lan của PRSA. Nhưng vào năm 1960, các chủng Staphylococcus aureus kháng methicillin đã được phát hiện [1]. Ngày nay, Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) là mối đe dọa đáng kể đối với việc chăm sóc sức khỏe, với 25% chủng Staphylococcus aureus phân lập cho thấy tình trạng kháng methicillin ở một số quốc gia, bao gồm cả Hoa Kỳ, trong thập kỷ qua [2]. Mặc dù trong một thời gian, MRSA chỉ được cho là xảy ra ở các cơ sở chăm sóc sức khỏe, nhưng tình huống này trở nên rắc rối hơn từ giữa những năm 1990 trở đi khi tình trạng nhiễm MRSA bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều ở những người không tiếp xúc với hệ thống chăm sóc sức khỏe (CA-MRSA). Ngay sau đó, MRSA đã trở thành đại dịch ở nhiều cơ sở y tế trên toàn thế giới. Nó được mệnh danh là MRSA liên quan đến bệnh viện (HA-MRSA) [2], [5].

Hình 1: Lịch sử của S.aureus và tính kháng thuốc của chúng [6]

Thực trạng hiện nay, vi khuẩn MRSA đã xuất hiện và gia tăng nhanh chóng. Năm 2017, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra danh sách 12 vi khuẩn kháng thuốc đáng báo động, trong đó MRSA thuộc nhóm cảnh báo cao. Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu cho thấy trong số bệnh phẩm phân lập được S.aureus thì tỷ lệ MRSA đều cao trên 70% [7], [8]. MRSA gây ra nhiều nhiễm khuẩn nặng như nhiễm khuẩn da mô mềm, nhiễm khuẩn cơ xương khớp, nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi… Trong báo cáo này chỉ tập trung đến điều trị nhiễm khuẩn da mô mềm, một trong những nhiễm khuẩn thường gặp gây ra bởi MRSA, và lưu ý khi sử dụng vancomycin – thuốc đầu tay trong điều trị nhiễm khuẩn do MRSA.

II. SỬ DỤNG KHÁNG SINH ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN MRSA

2.1. Các kháng sinh được sử dụng trong điều trị nhiễm khuẩn MRSA

Lựa chọn kháng sinh theo kinh nghiệm điều trị nhiễm khuẩn do MRSA nên được xem xét khi bệnh nhân có một số yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện do MRSA hoặc những bệnh nhân nhiễm trùng nghi ngờ do tụ cầu nặng ở khu vực có tỷ lệ MRSA > 20%. Lựa chọn kháng sinh, đường dùng và thời gian dùng phụ thuộc vào độ nặng và vị trí nhiễm trùng. Điều trị sau đó nên điều chỉnh dựa vào kết quả nuôi cấy và kháng sinh đồ.

Bảng 1: Các kháng sinh có tác dụng chống lại MRSA [9], [10]

Kháng sinh Chỉ định được FDA cấp phép Sử dụng off-label
Vancomycin Nhiễm khuẩn huyết

Viêm phổi

Nhiễm khuẩn xương khớp Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp

Clindamycin Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp

Viêm xương tuỷ xương

Viêm phổi

Daptomycin Nhiễm khuẩn huyết

Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp

Viêm xương tuỷ xương
Linezolid Viêm phổi

Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp

Nhiễm khuẩn huyết do MRSA liên quan đến catheter
Tedizolid Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp
Trimethoprim + sulfamethoxazol Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp không phức tạp Viêm xương tuỷ xương
Ceftaroline Viêm phổi (chỉ sử dụng cho viêm phổi đồng đồng, không phải viêm phổi do MRSA)

Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp

Liệu pháp cứu cánh cho nhiễm khuẩn huyết và viêm nội tâm mạc
Ceftobiprole Viêm phổi và nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp phức tạp
Telavancin Viêm phổi Nhiễm khuẩn huyết
Kháng sinh Chỉ định được FDA cấp phép Sử dụng off-label
Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp
Dalbavancin Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp Nhiễm khuẩn huyết liên quan đặt catheter
Oritavancin Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp
Delafloxacin Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp
Quinupristin + dalfopristin Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp Viêm phổi
Tigecyclin Viêm phổi

Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp

Nhiễm khuẩn huyết
Omadacycline Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da cấp

2.2. Điều trị nhiễm khuẩn da và mô mềm do MRSA

Các lựa chọn kháng sinh đường uống để điều trị nhiễm trùng da và mô mềm ở bệnh nhân mắc MRSA liên quan đến cộng đồng bao gồm clindamycin, trimethoprim/sulfamethoxazole (TMP/SMX; Bactrim, Septra), tetracycline (doxycycline hoặc minocycline [Minocin]) và linezolid (Zyvox) . Các lựa chọn để điều trị cả liên cầu khuẩn tán huyết β và MRSA liên quan đến cộng đồng bao gồm clindamycin đơn độc, TMP/SMX hoặc tetracycline kết hợp với kháng sinh beta-lactam (ví dụ: amoxicillin) hoặc linezolid đơn độc. Rifampin không được khuyến cáo sử dụng như một tác nhân duy nhất hoặc liệu pháp bổ trợ.

Đối với những bệnh nhân nhập viện bị nhiễm trùng da và mô mềm phức tạp (nghĩa là nhiễm trùng mô mềm sâu hơn, nhiễm trùng vết thương do phẫu thuật hoặc chấn thương, áp xe lớn, viêm mô tế bào hoặc loét và bỏng nhiễm trùng), liệu pháp điều trị MRSA theo kinh nghiệm nên được xem xét trong khi chờ kết quả nuôi cấy, trong khi ngoài phẫu thuật cắt bỏ mảnh vỡ và kháng sinh phổ rộng. Các lựa chọn điều trị theo kinh nghiệm bao gồm vancomycin tiêm tĩnh mạch, linezolid (600 mg uống hoặc tiêm tĩnh mạch hai lần mỗi ngày), daptomycin (Cubicin; 4 mg mỗi kg tiêm tĩnh mạch một lần mỗi ngày), telavancin (Vibativ; 10 mg mỗi kg tiêm tĩnh mạch một lần mỗi ngày) hoặc clindamycin (600 mg tiêm tĩnh mạch hoặc uống ba lần mỗi ngày). Một loại kháng sinh beta-lactam (ví dụ, cefazolin) có thể được xem xét ở những bệnh nhân nhập viện với viêm mô tế bào không có mủ. Liệu pháp tích cực MRSA có thể được sửa đổi nếu không có phản ứng lâm sàng. Nên điều trị từ 7 đến 14 ngày, nhưng nên tùy thuộc vào đáp ứng lâm sàng của từng bệnh nhân. Nuôi cấy từ áp xe và nhiễm trùng có mủ khác được khuyến nghị ở những bệnh nhân đã được điều trị bằng kháng sinh, những người bị nhiễm trùng tại chỗ nặng hoặc có dấu hiệu bệnh toàn thân và những người không đáp ứng đầy đủ với điều trị ban đầu. Nuôi cấy cũng được khuyến nghị nếu có lo ngại về một cụm hoặc ổ dịch.

Trong hướng dẫn điều trị nhiễm khuẩn do MRSA của Anh được cập nhật năm 2021, với mỗi loại nhiễm khuẩn da mô mềm có hướng dẫn điều trị như sau [11]:

2.2.1. Chốc lở

  • Để ngăn chặn sự phát triển của tình trạng kháng kháng sinh, xem xét một giải pháp thay thế cho axit fusidic hoặc mupirocin tại chỗ, ví dụ như thuốc sát trùng tại chỗ như kem hydro peroxide 1%, để điều trị bệnh chốc lở do MRSA gây ra khi có bệnh cục bộ, không có bọng nước và bệnh nhân không có bóng nước, lâm sàng tốt.
  • Cân nhắc sử dụng axit fusidic hoặc mupirocin tại chỗ như một lựa chọn hàng thứ hai trong bối cảnh lâm sàng này và chỉ khi chủng MRSA được biết là nhạy cảm.
  • Điều trị bệnh chốc lở phức tạp bằng liệu pháp kháng sinh toàn thân với sự lựa chọn thuốc được xác định bằng xét nghiệm độ nhạy cảm

2.2.2.  Áp xe

  • Sử dụng rạch và dẫn lưu để điều trị áp xe do MRSA
  • Không sử dụng kháng sinh thường xuyên ở những bệnh nhân bị áp xe do MRSA đã dẫn lưu, có đường kính nhỏ hơn 5 cm và không có phản ứng toàn thân (sốt và/hoặc viêm mô tế bào) và/hoặc suy giảm miễn dịch, bao gồm giảm bạch cầu trung tính và dị tật của miễn dịch qua trung gian tế bào.
  • Sử dụng kháng sinh kết hợp với rạch và dẫn lưu ở những bệnh nhân bị áp xe do chủng MRSA PFGE loại USA300 hoặc khi đây có thể là chủng phổ biến nhất.
  • Sử dụng clindamycin hoặc co-trimoxazole đường uống khi cần điều trị bằng đường uống và chủng MRSA được biết là nhạy cảm.

2.2.3. Nhiễm trùng da và mô mềm khác

  • Đối với nhiễm trùng mô tế bào/mô mềm nghiêm trọng do MRSA gây ra, hãy sử dụng glycopeptide tiêm tĩnh mạch (vancomycin hoặc teicoplanin).
  • Sử dụng linezolid (uống hoặc tiêm tĩnh mạch) hoặc daptomycin (tiêm tĩnh mạch) như một biện pháp thay thế. Cân nhắc tigecycline như một biện pháp thay thế khi các thuốc hàng đầu và hàng thứ hai bị chống chỉ định và chủng phân lập còn nhạy cảm.
  • Cân nhắc sử dụng clindamycin, co-trimoxazole hoặc doxycycline dưới dạng thuốc uống (khi chủng vi khuẩn nhạy cảm) để điều trị bệnh nhân bị nhiễm trùng da và mô mềm nhẹ do MRSA hoặc để điều trị từng bước bằng đường uống.
  • Cân nhắc các thuốc được cấp phép gần đây như ceftaroline, delafloxacin, oritavancin hoặc telavancin như các lựa chọn thay thế để điều trị viêm mô tế bào/nhiễm trùng mô mềm do MRSA.
  • Không có khuyến cáo nào về việc sử dụng ceftobiprole, dalbavancin và tedizolid hơn các thuốc điều trị tiêu chuẩn trong điều trị SSTI do MRSA gây ra.

2.3. Lưu ý khi sử dụng Vancomycin trong điều trị nhiễm khuẩn MRSA

Vancomycin là thuốc kháng sinh đầu tay trong điều trị nhiễm khuẩn do MRSA. Với tình trạng gia tăng chủng MRSA trong bệnh viện thì việc sử dụng vancomycin ngày càng trở nên phổ biến tại các cơ sở y tế. Do đó, nhằm tránh tình trạng đề kháng vancomycin, Bộ Y tế đã ban hành hướng dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh trong bệnh viện tại quyết định số 5631/QĐ-BYT ngày 31/12/2020 [12]. Vancomycin thuộc nhóm kháng sinh cần ưu tiên quản lý. Đây là kháng sinh dự trữ, lựa chọn cuối cùng trong điều trị các nhiễm khuẩn nặng khi đã thất bại hoặc kém đáp ứng với các phác đồ kháng sinh trước đó; lựa chọn điều trị các nhiễm khuẩn nghi ngờ hoặc có bằng chứng vi sinh xác định do vi sinh vật đa kháng; là kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn nặng do vi sinh vật kháng thuốc, có nguy cơ bị đề kháng cao nếu sử dụng rộng rãi, cân nhắc chỉ định phù hợp; kháng sinh có độc tính cao cần giám sát nồng độ điều trị thông qua nồng độ thuốc trogn amus hoặc giám sát chặt chẽ về lâm sàng và xét nghiệm để giảm các tác dụng không mong muốn và độc tính. Cần phân tích đặc điểm bệnh nhân, đặc điểm sử dụng thuốc, giám sát nồng độ thuốc trong máu (TDM) và hiệu chỉnh liều vancomycin trên bệnh nhân để tránh nguy cơ đề kháng và giảm độc tính của thuốc [13].

Kiểm tra độ nhạy cảm với vancomycin để hướng dẫn trị liệu:

Bảng 2: Nồng độ ức chế tối thiểu của vancomycin với một số vi khuẩn như sau [14]:

Chủng vi khuẩn MIC (microgam/ml) Tỉ lệ nhạy cảm
Staphylococcus aureus
Nhạy cảm với oxacilin 1,0 100%
Kháng oxacilin 1,5 100%
Coagulase-âm tính staphylococci
Nhạy cảm với oxacilin 2,0 100%
Kháng oxacilin 2,0 100%
Enterococcus (Enterococcus casseliflavus, faecalis, faecium và một số chủng

chưa xác định)

256 >75,3%
Viridans nhóm streptococci 1,0 100%
Streptococcus pneumoniae 0,75 100%
Streptococci beta tan máu 1,0 100%
Các chủng Corynebacterium 0,75 100%
Các chủng Bacillus 4,0 90,5%

Đối với các chủng phân lập có nồng độ ức chế tối thiểu của vancomycin là 2 mcg mỗi mL hoặc thấp hơn (ví dụ: nhạy cảm theo các điểm dừng của Viện Tiêu chuẩn Phòng thí nghiệm và Lâm sàng), đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân sẽ quyết định việc tiếp tục sử dụng vancomycin, không phụ thuộc vào nồng độ ức chế tối thiểu. Nếu bệnh nhân đã có đáp ứng lâm sàng và vi sinh trước đó với vancomycin, có thể tiếp tục điều trị với sự theo dõi chặt chẽ. Nếu bệnh nhân không đáp ứng với liệu pháp vancomycin mặc dù đã được làm sạch đầy đủ và loại bỏ các ổ nhiễm trùng khác, nên dùng một thuốc thay thế. Đối với các chủng phân lập có nồng độ ức chế tối thiểu vancomycin lớn hơn 2 mcg/mL (ví dụ: S. aureus trung gian vancomycin, S. aureus kháng vancomycin), nên chỉ định một tác nhân thay thế như linezolid.

Thận trọng khi sử dụng vancomycin [14]:

Thuốc độc với thận và thính giác, vì vậy cần thận trọng khi dùng cho bệnh nhân suy giảm chức năng thận và tránh dùng cho bệnh nhân đã bị giảm thính lực từ trước. Cần giảm liều thuốc nếu nhất thiết cần dùng cho các bệnh nhân này.

Các bệnh nhân có chức năng thận ở mức giới hạn hoặc người trên 60 tuổi cần định kỳ kiểm tra chức năng thính giác và định kỳ theo dõi nồng độ vancomycin trong máu.

Tất cả các bệnh nhân dùng vancomycin đều cần được phân tích nước tiểu và kiểm tra chức năng thận thường xuyên.

Theo dõi số lượng bạch cầu của người bệnh dùng thuốc kéo dài hoặc dùng phối hợp các thuốc có gây giảm bạch cầu vì vancomycin có thể gây giảm bạch cầu trung tính có hồi phục.

Để giảm thiểu nguy cơ xảy ra các phản ứng do truyền tĩnh mạch, bao gồm hạ huyết áp và đau tim, cần pha loãng mỗi 500 mg vancomycin với ít nhất 100 ml dịch và dung dịch pha loãng phải truyền trong ít nhất 60 phút. Ngừng truyền nếu phản ứng xảy ra.

Thường xuyên thay đổi vị trí truyền thuốc.

Dùng đồng thời với các thuốc gây mê làm tăng nguy cơ gặp các phản ứng do truyền tĩnh mạch (giảm huyết áp, nóng bừng, ban đỏ, mày đay hoặc ngứa).

Dùng vancomycin kéo dài có thể làm phát triển quá mức các vi khuẩn không nhạy cảm, vì vậy cần phải theo dõi cẩn thận và áp dụng biện pháp điều trị thích hợp nếu xảy ra bội nhiễm.

Viêm niêm mạc ruột làm tăng nguy cơ hấp thu thuốc dùng đường uống và tăng độc tính. Cần theo dõi những bệnh nhân có nguy cơ cao gặp độc tính, bao gồm bệnh nhân suy thận và/hoặc viêm ruột hoặc dùng đồng thời với aminoglycosid đường uống.

Vancomycin gây kích ứng mô, nên bắt buộc phải tiêm tĩnh mạch. Đau, ấn đau và hoại tử xảy ra nếu tiêm bắp hoặc tiêm ra ngoài mạch. Viêm tắc tĩnh mạch có thể xảy ra. Truyền tốc độ chậm dung dịch thuốc pha loãng (2,5 – 5 mg/ml) và thay đổi vị trí tiêm giúp hạn chế tần suất và mức độ nặng của tác dụng phụ này.

Thận trọng khi sử dụng vancomycin đường tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ do chức năng thận chưa hoàn chỉnh, có nguy cơ tăng nồng độ thuốc trong máu. Độ an toàn và hiệu quả của vancomycin dùng đường uống chưa được xác định ở trẻ em [15].

III. KẾT LUẬN

MRSA trở thành vấn đề toàn cầu khi tỷ lệ xuất hiện ngày càng nhiều trong các mẫu bệnh phẩm phân lập được S.aureus. 

Có thể sử dụng vancomycin, daptomycin hoặc linezolid đường tĩnh mạch cho nhiễm trùng da và mô mềm nặng. Cần tránh liệu pháp đường uống trong điều trị khởi đầu cho nhiễm trùng nặng. Clindamycin, trimethoprim–sulfamethoxazole và doxycyclin là liệu pháp thay thế cho điều trị nhiễm trùng da và mô mềm nhẹ và trung bình dựa trên kháng sinh đồ. Với áp xe da không biến chứng, sử dụng clindamycin hoặc trimethoprim– sulfamethoxazol kết hợp với rạch da và dẫn lưu giúp cải thiện tỷ lệ khỏi lâm sàng ở khoa cấp cứu và các phòng khám ngoại trú. Trong bối cảnh số lượng vancomycin được kê đơn tăng trên lâm sàng, vancomycin cần được giám sát sử dụng tại bệnh viện nhằm tránh tạo ra tình trạng kháng vancomycin.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Harkins CP, Pichon B, Doumith M, et al (2017). Methicillin-resistant Staphylococcus aureus emerged long before the introduction of methicillin into clinical practice. Genome Biol. 2017;18:130.
  2. Fatema M, Utsow S, Mayesha N Mostafa, Farzana S et al (2022). An Update on Treatment Options for Methicillin-Resistant Staphylococcus aureus (MRSA) Bacteremia: A Systematic Review. 2022 Nov; 14(11): e31486. doi: 10.7759/cureus.31486
  3. Lowey FD (1998), “Staphylococcus aureus infections”, N Engl J Med, 1998;339:520–32.
  4. Bellis M. Inventors.about.com/od/pstartinventions/a/Penicillin.htm. [cited in 1997]
  5. Brown NM, Goodman AL, Horner C, Jenkins A, Brown EM. Treatment of methicillin-resistant Staphylococcus aureus (MRSA): updated guidelines from the UK (2021), JAC Antimicrob Resist, Feb 3;3(1).
  6. Waness A (2010), “Revisiting Methicillin-Resistant Staphylococcus aureus”, J Glob Infect Dis, Jan;2(1):49-56.
  7. Phát Đạt Bùi, Văn Chương Lê, Quốc Đạt Ngô, Ngọc Hương Hồ, Minh Tuấn Huỳnh, bệnh viện đa khoa Bạc Liêu (2021), “Khảo sát tỷ lệ Staphylococcus aureus đề kháng Methicillin (MRSA) và hiệu qủa phối hợp kháng sinh vancomycin với cefepim/gentamicin trên các chủng MRSA phân lập tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bạc Liêu”, Tạp chí y học Việt nam, Tập 508 số 2, 2021.
  8. Trịnh Thị Hằng, Nguyễn Hùng Cường, Hoàng Thị Hải Yến, Nguyễn Thị Thanh Phượng, Trần Đức, Lại Thị Quỳnh (2022), “Nghiên cứu tỷ lệ và một số đặc điểm kháng kháng sinh của Staphylococcus aureus phân lập từ bệnh phẩm lâm sàng tại bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp (1/2020 – 12/2020)”, Tạp chí y học Việt nam, tập 515 – tháng 6 – Số đặc biệt, 2022.
  9. Turner NA, Sharma-Kuinkel BK, Maskarinec SA, Eichenberger EM, Shah PP, Carugati M, Holland TL, Fowler VG Jr (2019), “Methicillin-resistant Staphylococcus aureus: an overview of basic and clinical research”, Nat Rev Microbiol, Apr;17(4):203218.
  10. Catherine Liu, Arnold Bayer, Sara E. Cosgrove, et al (2011). Treatment of Methicillin-Resistant Staphylococcus aureus Infections (MRSA) in Adults and Children (Archived). Clinical Infectious Diseases, Volume 52, Issue 3, 1 February 2011, Pages e18–e55, https://doi.org/10.1093/cid/ciq146
  11. Brown NM, Goodman AL, Horner C, Jenkins A, Brown EM. Treatment of methicillin-resistant Staphylococcus aureus (MRSA): updated guidelines from the UK (2021), JAC Antimicrob Resist, Feb 3;3(1).
  12. Bộ Y tế (2020). Quyết định 5631/QĐ-BYT ban hành hướng dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh trong bệnh viện ngày 31/12/2020.
  13. Tăng Quốc An (2023). Khảo sát kết quả giám sát nồng độ vancomycin trong máu tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học Dược Hà Nội-2023. Khóa luận tốt nghiệp Dược sĩ.
  14. Bộ Y tế (2018). Dược thư Quốc gia Việt Nam 2018, NXB Y học.
  15. Ye C, Wang Z, Hu Y, et al (2020). Systematic review and meta-analysis of the efficacy and safety of vancomycin combined with β-lactam antibiotics in the treatment of methicillin-resistant Staphylococcus aureus bloodstream infections. Journal of Global Antimicrobial Resistance. 2020;23:303-310.
Facebook
Twitter
LinkedIn
Email