Nhiễm trùng do Adenovirus

 

Tác giả: Trần Đình Bình

Bộ môn Vi sinh, Đại học Y-Dược, Đại học Huế

Trong thời gian gần đây, số lượng ca bệnh mắc và phải nhập viện do nhiễm Adenovirus gia tăng mạnh, đặc biệt là đối tượng trẻ em, trong đó đã có ca tử vong.

Đặc tính virus học

  Năm 1953, Rowe và cộng sự phân lập được các chủng Adenovirus đầu tiên từ mô sùi vòm họng và hạch hạnh nhân của  người. Sau đó những virus tương tự được phân lập từ người lành và người bệnh…Năm 1956, tên Adenovirus được đặt cho nhóm này và tên này được dùng cho đến ngày nay. Adenovirus thuộc họ Adenoviridae. Có hai giống được công nhận là Aviadenovirus (chim) và Mastadenovirus (người và động vật có vú). Các Adenovirus người gồm có 41 typ huyết thanh khác nhau, trong đó có nhiều typ huyết thanh có thể gây bệnh cho người.

Cấu trúc:

Adenovirus là những virus chứa DNA hai sợi, kích thước virus từ 70 đến 80 nm đường kính, không có vỏ bọc, capsid có đối xứng hình khối và virus có hình đa giác đều tạo nên bởi 252 capsome. Có hai loại capsome chính là: 240 capsome gọi là Hexon nằm trên 20 mặt hình đa giác đều và 12 capsome gọi là penton nằm ở 12 đỉnh của hình đa giác đều. Mỗi penton mang một sợi nhô ra bên ngoài và tận cùng bởi một khối hình cầu nhỏ. Lõi chứa DNA 2 sợi có trọng lượng phân tử 20×106 đến 25×10Dalton.

Sức đề kháng của virus : Adenovirus đề kháng với ete, bền vững trong phạm vi pH rộng từ 2 – 10. Adenovirus có thể tồn tại và không giảm hoạt tính xâm nhiễm khi ở 4oC trong nhiều tuần hoặc ở -25oC trong nhiều tháng.

Gây bệnh cho người

Adenovirus người lưu hành rộng rãi khắp nơi trên thê giới. Chúng có khả năng gây ra nhiều bệnh ở đường hô hấp, ở mắt ở đường tiêu hóa và nhiều cơ quan khác của trẻ em và người lớn. Bệnh lây truyền chủ yếu theo đường hô hấp, virus có ở họng trong những ngày đầu của bệnh, rồi theo phân ra ngoài trong nhiều tuần lễ và tồn tại nhiều năm ở hạch hạnh nhân. Adenovirus người có thể gây các hội chứng lâm sàng sau:

– Nhiễm virus cấp tính ở đường hô hấp trên: Adenovirus có hướng tính đặc biệt với đường hô hấp trên, gây các vụ dịch đường hô hấp cấp tính trong một tập thể. Thời gian ủ bệnh 6-8 ngày triệu chứng nổi bật đầu tiên là sốt kèm theo nhức đầu, sốt kéo dài 2 đến 4 ngày, các triệu chứng đường hô hấp tồn tại khoảng 1 đến 2 tuần lể, bệnh nhân khỏi hoàn toàn. Hội chứng này thường do các typ 3, 4, 7 gây ra. Người ta còn gặp thêm các Adenovirus typ 1, 2, 5 và 6 gây dịch ở địa phương ở trẻ em.. 

– Viêm phổi: có thể mắc viêm phổi sau nhiễm virus ở đường hô hấp trên, nhưng cũng có thể trẻ em bị viêm phổi ngay khi nhiễm Adenovirus. Thời kỳ nung bệnh từ 6 – 8 ngày. Bệnh đột ngột với sốt cao 390C, ho, chảy nước mũi và các dấu hiệu tổn thương thực thể ở phổi, các tổn thương này lan rộng và kéo dài.  Bệnh viêm phổi cấp do Adenovirus typ 3,4,7 và 14 gây ra và thường xuyên xảy ra trong các tập thể thanh thiếu niên, đặc biệt typ 7 thường xảy ra ở viêm phổi nặng, chủ yếu ở trẻ em, tỷ lệ tử vong cao, khi khỏi để lại di chứng ở phổi.

– Sốt, viêm thanh quản và kết mạc: Thời kỳ nung bệnh từ 4 – 5 ngày. Bệnh có ba triệu chứng đặc biệt là sốt 38oC, viêm thanh quản cấp tính có ban đỏ khó nuốt và viêm kết mạc ở một hoặc hai bên. Hội chứng này thường do Adenovirus typ 3 gây ra.

– Viêm giác mạc – kết mạc thành dịch (Bệnh đau mắt đỏ): Viêm kết mạc do Adenovirus gây ra có thể là một biểu hiện lâm sàng riêng biệt hay là kết hợp với hội chứng đường hô hấp. Thời kỳ nung bệnh từ 5 – 7 ngày, bệnh khởi đầu đột ngột, kết mạc đỏ và các tổ chức tế bào quanh mắt bị phù thũng. Bắt đầu chỉ có một mắt bị viêm, khoảng 3 – 7 ngày sau lan sang mắt thứ hai. Ở xung quanh tai có hạch và giác mạc có những khỏang mờ tròn, nhỏ và nông. Các thương tổn này xuất hiện trong vòng 2 – 4 tuần lễ, hầu hết bệnh nhân khỏi hoàn toàn. Gây ra bởi Adenovirus typ 8, 19, 37.

– Viêm dạ dày, ruột gây tiêu chảy cấp: Các Adenovirus là một tác nhân virus thường gặp trong bệnh viêm dạ dày – ruột cấp tính không do vi khuẩn. Adenovirus chiếm vị trí thứ 2 sau Rotavirus trong bệnh tiêu chảy do virus ở trẻ nhỏ. Thời kỳ ủ bệnh từ 3 – 10 ngày. Bệnh nhân tiêu chảy tóe nước kéo dài khoảng 7 ngày, có kèm theo sốt, nôn, hội chứng đường hô hấp và viêm kết mạc. Bệnh thường do Adenovirus typ 40, 41 và 31 gây ra.

– Bệnh khác: Điển hình là viêm bàng quang chảy máu hoặc khi xuất hiện trong tử cung hay niệu đạo, chúng có thể lây lan qua sinh hoạt tình dục.

– Nhiễm virus thể ẩn: Một người có thể nhiễm Adenovirus nhiều lần nhưng đều bị bỏ qua vì không có dấu hiệu lâm sàng, chỉ phát hiện được khi nuôi cấy phân lập virus. Adenovirus có thể sống âm ỉ trong hạch hạnh nhân và trong ruột người lành trong nhiều tuần. Tỷ lệ mang virus mà không có triệu chứng gì rất cao, chiếm 80-90% các ca nhiễm, do vậy đây là nguồn lây quan trọng trong cộng đồng.

Chẩn đoán

– Về lâm sàng: Tuỳ theo bệnh cảnh lâm sàng do Adenovirus gây ra mà có các triệu chứng chung và khu trú. Điển hình là sốt, viêm họng kèm khàn giọng, có thể kèm theo triệu chứng đỏ mắt, có gèn, chảy nước mắt…Nói chung, rất khó để dựa vào lâm sàng để chẩn đoán nhiễm Adenovirus.

– Xét nghiệm

+ Test nhanh:

Dùng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp để  chẩn đoán trong các thể phổi nặng bằng cách phát hiện kháng nguyên virus trong các tế bào biểu mô đường hô hấp trên (bệnh phẩm) bằng kháng huyết thanh mẫu có gắn chất màu huỳnh quang.

Trong trường hợp ỉa chảy do Adenovirus, có thể xét nghiệm phân bằng kính hiển vi điện tử và đơn giản hơn là dựa vào kỹ thuật ngưng kết hạt latex có gắn kháng thể để phát hiện Adenovirus trong phân.

+ Kỹ thuật sinh học phân tử: xác định bệnh hiệu quả và chính xác nhất là xét nghiệm bằng phương pháp Realtime PCR tìm acid nucleic của virus trong bệnh phẩm.

+ Nuôi cấy phân lập virus: Lấy bệnh phâm tùy theo hội chứng lâm sàng, có thể là chất tiết của mũi hầu hay mắt, hay nước rửa cổ họng, hay phân… Nuôi cấy bệnh phẩm vào các nuôi cấy tế bào thích hợp như nuôi cấy tế bào HeLa, Hep-2…, phát hiện hiệu ứng tế bào bệnh lý, sự hủy hoại tế bào nuôi cấy xảy ra sau 2 – 4 ngày.

+ Chẩn đoán huyết thanh: Có thể dùng phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu, phản ứng kết hợp bổ thể, phản ứng trung hòa để phát hiện các kháng thể có trong huyết thanh bệnh nhân. Khi hiệu giá kháng thể tăng lên ở máu lấy lần thứ 2, thì có giá trị chẩn đoán.

Phòng bệnh và chữa bệnh

– Phòng bệnh chung: Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp bằng giọt bắn, vì vậy các biện pháp phòng bệnh chung giống như phòng bệnh các virus đường hô hấp khác, đó là đeo khẩu trang, vệ sinh tay bằng dung dịch sát khuẩn tay có chứ cồn, vệ sinh ăn uống, nâng cao sức đề kháng của cơ thể, hạn chế tụ tập đông người…Cho trẻ tiêm chủng đầy đủ các loại vacxin trong chương trình tiêm chủng mở rộng.

– Phòng bệnh đặc hiệu: Hiện nay chưa có vacxin phòng bệnh do Adenovirus, dang nghiên cứu vaccine sống giảm độc.

– Chữa bệnh: Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu với virus Adeno. Chú ý chăm sóc tốt và theo dõi kỹ diễn tiến của bệnh, hạ sốt cho trẻ nếu sốt cao, cần đề phòng bội nhiễm vi khuẩn đặc biệt ở trẻ suy dinh dưỡng, trẻ em mắc các bệnh nền (tim bẩm sinh, suy giảm miễn dịch,trẻ sinh non…/.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Lê Văn An (Chủ biên) (2016). Giáo trình Vi sinh Y học, Nhà xuất bản Đại học Huế.
  2. Douglas D. Richman, Richard J. Whitley, Frederick G. Hayden. (2017), Clinical Virology, 4 th edition, ASM Press, Washington, DC
  3. Mandell GL, Bennett JE and Dolin R; Mandell (2020), Douglas and Bennett ‘s Principles and practice of infectious diseases, 9th ed, Elsevier, Philadelphia.
  4. Ngọc Dung (2022). Bệnh nhi 13 tháng tuổi tử vong vì Adenovirus dù không bệnh nền. Báo Người Lao động, ngày 4 tháng 10 năm 2022. https://nld.com.vn/suc-khoe/benh-nhi-13-thang-tuoi-tu-vong-vi-adenovirus-du-khong-benh-nen-20221004090614729.htm

 

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email