Tác giả: TS. Đặng Thanh Phú
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc; là lực lượng có vai trò quan trọng trong liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; có trách nhiệm tiên phong, tạo ra sản phẩm tinh thần, vật chất chất lượng cao cho xã hội, là nguồn lực đặc biệt trong phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự ra đời của Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, là một cú hích mạnh mẽ để khơi thông các điểm nghẽn, khuyến khích sự tham gia tích cực của đội ngũ trí thức vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần làm gì để phát huy hơn nữa vai trò và trách nhiệm của đội ngũ trí thức.
Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp “nguyên khí quốc gia” và phát triển bền vững; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Chú trọng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam cả trong và ngoài nước, có cơ chế, chính sách đột phá thu hút, trọng dụng trí thức, đặc biệt là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành và nhân tài của đất nước; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lớp trí thức trẻ, kế cận. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng, học thuật, thực hành dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tạo môi trường, điều kiện và động lực để phát huy vai trò, sự cống hiến đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí thức.
II. VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM
Trong lịch sử dân tộc, cha ông ta đã tôn vinh và rất quý trọng hiền tài. Tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, bia Tiến sỹ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) từng khắc ghi: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước kém và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí”.
Thấm nhuần lời dạy của tiền nhân, trong quá trình lãnh đạo cách mạng và kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất trọng dụng và bồi dưỡng nhân tài. Người viết: “Kiến thiết cần có nhân tài”; cách mạng “cần có lực lượng của trí thức (chúng ta quen gọi là lao động trí óc)”, “trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang”. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất thực tâm trân trọng trí thức nên đã quy tụ được nhiều trí thức giỏi tận tâm phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Người hiểu rõ “vai trò quan trọng và vẻ vang của trí thức” nên nhiều lần khẳng định rằng, “để xây dựng nước nhà, chúng ta càng ngày càng cần nhiều trí thức tốt”, do vậy, Đảng và Chính phủ cần “quý trọng những người trí thức của nhân dân, vì nhân dân”, “Đảng và Chính phủ vừa phải giúp đỡ cho thế hệ trí thức ngày nay càng ngày càng tiến bộ, vừa phải ra sức đào tạo thêm trí thức mới”, những trí thức “chính tâm và thân dân
Đến năm 2017, ước tính cả nước có khoảng 6,5 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, tăng hơn 3,7 triệu người so với năm 2009 (năm đầu tiên triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW). Theo kết quả này, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tăng thêm khoảng 2,8 triệu người sau 9 năm (2009-2017) so với 2,25 triệu người trong 10 năm trước khi ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW (1999 – 2009). Ngoài trí thức trong nước, còn có khoảng hơn 400.000 người trí thức Việt kiều (trong đó có hơn 6.000 tiến sỹ và hàng trăm trí thức tên tuổi được đánh giá cao) trên tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Mười năm qua, trí thức Việt Nam phát triển nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng và đã thực sự hình thành một đội ngũ trí thức mới… Đội ngũ trí thức có những đóng góp không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Họ có mặt ở tất cả các lĩnh vực đời sống, kinh tế – xã hội, như chính trị, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học – nghệ thuật…
Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam
Đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ, hội nhập quốc tế, được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất, tạo môi trường làm việc thuận lợi. Đội ngũ trí thức đã tạo ra nhiều công trình, sản phẩm khoa học, công nghệ, văn hóa, tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao của đội ngũ trí thức góp phần quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành của Việt Nam có đủ năng lực, trình độ tiệm cận với các nước tiên tiến trong khu vực và cả thế giới.
TS. Trần Xuân Bách nhận giải thưởng Nghiên cứu xuất sắc ISPOR 2023 tại thành phố Copenhagen, Đan Mạch (Nguồn: vnexpress.net).
Đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Họ là lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển giao tri thức, góp phần nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, định hướng giá trị và giải quyết các vấn đề xã hội.
III. NHỮNG TỒN TẠI, THÁCH THỨC TRONG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Cùng với những mặt tích cực đạt được, vẫn còn nhiều tồn tại, thách thức trong phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong công xây dưng và phát triển đất nước trong tình hình mới.
Theo đó, những bất cập chủ yếu gồm: việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức còn bất cập, một số nội dung của Nghị quyết 45 chậm được thể chế, các chính sách pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ, vẫn còn thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức, nhất là bộ phận trí thức tinh hoa, các nhà khoa học, nhà văn hóa lớn.
Cơ cấu, số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức chưa hợp lý, thiếu hụt chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quan trọng; chưa tạo được môi trường thuận lợi động viên trí thức chủ động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, truyền thụ kiến thức, tư vấn, phản biện xã hội; việc xây dựng đội ngũ trí thức chưa gắn với mục tiêu, nhiệm vụ của từng ngành, địa phương.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa quan tâm đúng mức đến phát triển đội ngũ trí thức. Chưa xây dựng được Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là do: nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức chưa đầy đủ, sâu sắc; việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa đồng bộ, hiệu quả; chậm khắc phục hạn chế, bất cập trong cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức. Đáng chú ý là vẫn còn một bộ phận trí thức chưa nhận thức đầy đủ vai trò đối với phát triển đất nước, còn thụ động, trông chờ, ngại bày tỏ chính kiến; năng lực, phẩm chất, uy tín chưa đáp ứng yêu cầu.
IV. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để đạt được các mục tiêu như tinh thần của Nghị quyết 45, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, cần có một số giải pháp sau:
Một là, Tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển đội ngũ tri thức; thường xuyên quán triệt, củng cố nhận thức chính trị của đội ngũ trí thức về vai trò, trách nhiệm đối với đất nước.
Hai là, Tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức; khẩn trương thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm khả thi, đồng bộ, hiệu quả; sớm ban hành và tổ chức thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, Tạo điều kiện và khuyến khích đội ngũ trí thức tham gia đóng góp ý kiến, tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với việc hoạch định chính sách, xây dựng và triển khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, công trình, dự án quan trọng thực hiện mục tiêu phát triển đất nước.
Bốn là, Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ, các cơ sở giáo dục đại học trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo và các chức danh khoa học; nghiên cứu, sửa đổi tuổi lao động phù hợp với hoạt động của đội ngũ trí thức.
Năm là, Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài; khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo, cơ sở nghiên cứu trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở tiên tiến trên thế giới để trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ, năng lực hoạt động…
Sáu là, Tăng cường hợp tác với trí thức người Việt Nam sinh sống, làm việc ở nước ngoài, trí thức người nước ngoài trong chuyển giao, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những lĩnh vực mới, quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mở rộng hợp tác quốc tế, giao lưu học thuật, liên kết, hợp tác chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ với các quốc gia, tổ chức đối tác có nền khoa học và công nghệ tiên tiến, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài…
Bảy là, Nâng cao hiệu quả và phát huy hoạt động của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia; thành lập Quỹ đầu tư đổi mới sáng tạo; khuyến khích khu vực tư nhân thành lập các quỹ đầu tư khoa học và công nghệ, thu hút trí thức tham gia hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo./.