Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia

Tác giả: Đặng Thanh Phú

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia, là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, đến nay đất nước ta đang đứng trước yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá chiến lược khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Điểm đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia từ Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị

Từ nhận thức, tư duy và tầm nhìn trên, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là một văn bản hết sức quan trọng thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và đặc biệt là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đối với sự nghiệp phát triển ngành khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trước vận hội mới của đất nước. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm giữ cương vị Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Với Nghị quyết số 57-NQ/TW, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận những khiếm khuyết và kết quả chưa đạt được, đó là: tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành, cán bộ, công chức và Nhân dân về chuyển đổi số chưa đầy đủ và sâu sắc; nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi; thế chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng số còn nhiều hạn chế; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu còn nhiều thách thức.

Từ tình hình, thực tế nêu trên, Bộ Chính trị đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo, các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp, cách thức tổ chức thực hiện hết sức cụ thể, thiết thực. Theo đó, quan điểm chỉ đạo nêu rõ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế – xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bức phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới; Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng. Người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính, nhà khoa học là nhân tố then chốt, Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Thể chế, nhân lực, hạ tầng[1], dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo, loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, chú trọng bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài; Phát triển nhanh và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược, ưu tiên nguồn lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn với nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế; Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông tin của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Với các mục tiêu, điểm đáng lưu ý là tại nghị quyết lần này, các mục tiêu được đề ra hết sức cụ thể, rõ nét. Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam sẽ thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử, nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế, tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến; đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân, có từ 40-50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; Hạ tầng công nghệ tiên tiến[2], hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; Quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia[3], cơ sở dữ liệu các ngành, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu. Đến năm 2045, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP, là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tỉ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước phát triển, tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến, thu hút thêm ít nhất 5 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.

Từ các quan điểm, mục tiêu cụ thể nêu trên, Bộ Chính trị đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp, đó là: (1) Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; (2) Khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế, xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển, đưa thế chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; (3) Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; (4) Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; (5) Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh; (6) Thúc đẩy mạnh mẽ trong hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp; (7) Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyên đổi số.

Quán triệt, thực hiện các ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đối với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia

Ngày 13/01/2025, hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được tổ chức tại Hà Nội với tham dự của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành trung ương, các địa phương. Đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã đến dự, chỉ đạo và có bài phát biểu hết sức quan trọng tại Hội nghị. Theo đó, trong bài phát biểu, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhắc đến sự kiện là ngày 18/05/1963, tại Hội trường Ba Đình lịch sử, Đại hội lần thứ nhất của Hội Phổ biến Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam được tổ chức, đánh dấu sự kiện quan trọng trong lịch sử khoa học và công nghệ nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, trong bài phát biểu tại Đại hội đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phổ biến khoa học và kỹ thuật, coi đây là động lực để xây dựng và phát triển đất nước. Người căn dặn: “Khoa học phải gắn với sản xuất, phục vụ nhân dân”. Sự kiện này đặt nền móng cho những bước phát triển ứng dụng khoa học để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh hơn sáu thập kỷ sau, hội nghị toàn quốc lần thứ hai được tổ chức, với quy mô và tầm vóc mới, phản ánh quyết tâm của cả hệ thống chính trị và đất nước trong việc đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Về quan điểm, định hướng, đồng chí Tổng Bí thư cho rằng: luôn quán triệt xem đầu tư khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chiến lược lâu dài, chấp nhận độ trễ và rủi ro trong triển khai. Xem đây là khoản đầu tư, mà đầu tư thì chấp nhận có thắng có thua. Xem dữ liệu là nguồn tài nguyên mới, là “không khí và ánh sáng” của kỷ nguyên mới, là tư liệu sản xuất mới; chuyển đổi số là công cụ đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh, đổi mới lực lượng sản xuất. Đổi mới sáng tạo chính là “cây gậy thần” đạt tới thịnh vượng bền vững, với nhà khoa học giữ vị trí trung tâm. Từ quan điểm, định hướng trên, Tổng Bí thư đã đề ra 08 nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, đó là: (1) Thống nhất nhận thức và hành động: xác định phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng[4], toàn dân và toàn quân; (2) Khẩn trương hoàn thiện thể chế, chính sách: trong năm 2025, càng sớm càng tốt phải hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định pháp luật, cơ chế chính sách, tháo gỡ hết các điểm nghẽn, rào cản để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, giải phóng tối đa sức sáng tạo, khuyến khích dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; (3) Khẩn trương sắp xếp lại bộ máy về khoa học và công nghệ: Trong quý I/2025, hoàn thành việc sắp xếp lại các tổ chức khoa học, công nghệ; tập trung đầu tư trọng điểm để phát triển các tổ chức nghiên cứu mạnh. Có kế hoạch cụ thể để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân tài khoa học, công nghệ. Triển khai các giải pháp đột phá để thu hút các tập đoàn công nghệ hàng đầu, thu hút nhân tài công nghệ là người Việt[5] và người nước ngoài tới làm việc. (4) Ưu tiên bố trí ngân sách cho KHCN xứng tầm là quốc sách đột phá: bố trí ngân sách cho khoa học và công nghệ (KHCN), nghiên cứu và phát triển (R&D)[6], lập các quỹ KHCN, khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thiên thần, quỹ khởi nghiệp, quỹ đổi mới sáng tạo, v.v… (5) Nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: ban hành cơ chế thu hút nhân tài nói chung, đặc biệt là nhân tài KHCN, nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia quốc tế với các chính sách hấp dẫn về quốc tịch, thu nhập, nhà ở và môi trường làm việc. (6) Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ, bao gồm công nghệ số. Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hạ tầng như đã nêu trong Nghị quyết 57. (7) Tập trung mũi nhọn vào các ngành có lợi thế và tiềm năng, tránh dàn trải. (8) Đẩy mạnh hợp tác và tận dụng tri thức quốc tế. Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ với các quốc gia tiên tiến, nhất là trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, bán dẫn và năng lượng tái tạo.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại hội nghị

Bên cạnh bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã có bài phát biểu tại hội nghị. Theo Thủ tướng, để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, chính phủ đã ban hành Chương trình hành động với 7 nhóm nhiệm vụ và 140 nhiệm vụ cụ thể. Theo đó, các nhóm nhiệm vụ gồm: (1) Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển KHCN, ĐMST và CĐS; (2) Khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế, xóa bỏ mọi tư tưởng, quan điểm, rào cản đang cản trở sự phát triển, đưa thể thế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển KHCN, ĐMST và CĐS; (3) Tăng cường đầu tư hạ tầng cho KHCN, ĐMST, CĐS là một chiến lược mang tính nền tảng, trong đó hạ tầng đóng vai trò một yếu tố cốt lõi để tạo đà bứt phá cho đất nước; (4) Phát triển và trọng dụng nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt, là chìa khóa vạn năng mở ra cánh cửa thành công; (5) Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng KHCN, ĐMST trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm quốc phòng an ninh; (6) Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động KHCN, ĐMST và CĐS trong doanh nghiệp; (7) Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển KHCN, ĐMST và CĐS.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại hội nghị

Tại hội nghị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cũng đã có báo cáo chuyên đề về “Chủ trương, giải pháp về thể chế, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Chủ tịch Quốc hội đã thẳng thắn nêu ra những mặt được, ưu điểm và những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn của hệ thống văn bản pháp luật hiện nay trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; trong đó, đáng chú ý là những hạn chế cơ bản, như: (i) thiếu đồng bộ, thống nhất, dẫn đến một số cơ chế[7] khuyến khích, thúc đẩy trong những lĩnh vực này không phát huy được tác dụng; (ii) cơ chế đầu tư, tài chính cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự phù hợp, chưa khuyến khích, thu hút đầu tư từ xã hội; trong đó có 8 vấn đề cụ thể sau: tổng kinh phí đầu tư của toàn xã hội cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo còn thấp; phân bổ vốn đầu tư cho hoạt động khoa học, công nghệ còn chồng chéo, dàn trải, chưa tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên; kinh phí phân bổ hàng năm đa số các bộ, ngành trung ương và các địa phương không giải ngân hết; quy định về xây dựng dự toán và kinh phí quản lý nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách nhà nước hiện nay chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KHCN, chưa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của cộng đồng khoa học; cơ chế quản lý tài chính đối với các tổ chức KHCN, nhất là các tổ chức sự nghiệp công; quy định về việc khuyến khích lập và sử dụng quỹ chưa đủ hấp dẫn, chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp trích lập quỹ chưa nhiều và số dư quỹ chưa sử dụng còn lớn; cơ chế khoán chi, việc chi tiêu, thanh toán vẫn phải chịu sự điều chỉnh đồng thời của Luật Kế toán, Luật Ngân sách nhà nước và Luật đấu thầu; các khó khăn, vướng mắc trong việc quản lý, sử dụng tài sản công đối với xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước. (iii) cơ chế đầu tư, tài chính để triển khai hoạt động chuyển đổi số còn khó khăn, chưa được tháo gỡ kịp thời. Từ những hạn chế nêu trên, Chủ tịch Quốc hội đã đưa ra các giải pháp sau: (1) Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy về vị trí, vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; (2) Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương thức, quy trình thủ tục trong hoạt động xây dựng pháp luật; (3) Tổ chức hoàn thiện pháp luật phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; (4) Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội sẽ phối hợp với Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức rà soát hệ thống pháp luật có liên quan, thể chế đầy đủ, kịp thời, đồng bộ theo đúng yêu cầu của Nghị quyết 57; (5) Ban cán sự Đảng Chính phủ, Chính phủ, các bộ, ngành chú trọng việc tổ chức đánh giá, tổng kết thi hành, rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới pháp luật trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số bảo đảm yêu cầu chất lượng, tiến độ theo quy định.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu tại hội nghị

Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị tạo xung lực mới cho thành phố Huế trực thuộc Trung ương phấn đấu trở thành Trung tâm Khoa học và Công nghệ của khu vực và cả nước

Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã tạo ra luồng gió mới, xung lực mới cho đất nước để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đưa đất nước vững bước bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc như lời khẳng định của Tổng Bí thư Tô Lâm. Với Huế, năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW về xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; trong đó, đã đề ra mục tiêu phấn đến đến năm 2030, Thừa Thiên Huế là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của khu vực Đông Nam Á về văn hóa, du lịch và y tế chuyên sâu, một trung tâm lớn của cả nước về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao. Giải pháp để Thừa Thiên Huế trở thành trung tâm khoa học và công nghệ của cả nước là “phát triển khoa học và công nghệ của tỉnh theo cơ chế thị trường, hình thành khu công nghệ thông tin tập trung, khu công nghệ cao và các tổ chức nghiên cứu đủ sức giải quyết các nhiệm vụ khoa học công nghệ của vùng và quốc gia, trở thành trung tâm lớn của cả nước về khoa học và công nghệ”. Tuy nhiên, đã đến lúc HUẾ cần điều chỉnh và thay đổi để phù hợp với một tâm thế của một thành phố trực thuộc Trung ương như tinh thần của Nghị quyết 175/2024/QH15 của Quốc hội và đáp ứng được mục tiêu đề ra là một trung tâm khoa học và công nghệ lớn của khu vực và cả nước. Và, ngay từ bây giờ, Huế cần tận dụng tốt Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị để phục vụ phát triển cho Huế, cho khu vực và đất nước trong thời gian đến./.

 

[1] Phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng số, công nghệ số trên nguyên tắc “hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí”; làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.

[2] Từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ đổi mới, phủ sóng 5G toàn quốc.

[3] Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hóa số đạt mức cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.

[4] Các cấp ủy, chính quyền, đơn vị cần lập kế hoạch cụ thể, bám sát mục tiêu Nghị quyết 57, với nhiệm vụ rõ rang, phân công cụ thể, thời gian hoàn thành và kết quả đo lường được. Ngay trong năm 2025, cần phải lựa chọn và giải quyết những vấn đề rất căn cơ, tạo nền tảng cho giai đoạn 2026 – 2030, tạo cú hích cho năng xuất lao động mới, tạo niềm tin cho xã hội.

[5] Nhà nước có thể chọn thí điểm một số viện, hoặc trường để mời chuyên gia ở bên ngoài làm lãnh đạo, nhất là trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, những người hiểu rõ văn hóa Việt Nam, trưởng thành ở các nước phát triển, am hiểu chuyên môn và quản lý, có sự kết nối quốc tế sâu rộng.

[6] Nghiên cứu cơ chế cho mô hình “đầu tư công – quản trị tư”, bảo đảm nhà khoa học có quyền chủ động trong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ.

[7] Ví dụ, Luật KHCN năm 2013 có quy định cơ chế quỹ, tuy nhiên trên thực tế cơ chế quỹ không triển khai được bởi Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 chưa quy định đồng bộ và chưa sửa đổi kịp thời.

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email