Phổ biến kiến thức về bệnh bạch hầu

Tác giả: PGS. TS Trần Xuân Chương

Chủ tịch Hội Truyền nhiễm tỉnh Thừa Thiên Huế

Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm trùng cấp tính, do vi khuẩn gram dương, hiếu khí Corynebacterium diphtheriae gây ra. Vi khuẩn này làm xuất hiện giả mạc dày, trắng ngà, bám chặt và lan nhanh bao phủ toàn bộ vòm họng, mũi, thanh quản. Bệnh còn có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác.

Trong những năm qua, nhờ thực hiện tốt việc đưa vắc-xin phòng bạch hầu vào chương trình Tiêm chủng mở rộng nên ở nước ta tỷ lệ mắc bệnh đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, bệnh vẫn còn có nguy cơ bùng phát và lây lan ở những địa phương có tỷ lệ tiêm chủng thấp, đặc biệt trong và sau dịch COVID-19. Các đối tượng như trẻ em dưới 5 tuổi, người lớn tuổi, người bị suy giảm miễn dịch, sống chung môi trường đông đúc, chật hẹp, không tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch đều là những nhóm có nguy cơ cao dễ mắc bệnh bạch hầu.

Tác nhân gây bệnh bạch hầu

Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae có hình dáng thẳng hoặc cong nhẹ, không di động, không có vỏ, không sinh bào tử. Vi khuẩn phát triển nhanh trong môi trường có máu và huyết thanh.

Vi khuẩn bạch hầu là cầu trực khuẩn gram (+), hình chuỳ dài 1-9 µm, rộng 0,3 – 0,8 µm, không di động, không có vỏ, không tạo nha bào. Trực khuẩn bạch hầu sống lâu ở giả mạc và họng của bệnh nhân. Trong điều kiện thiếu ánh sáng vi khuẩn sống tới 6 tháng và tồn tại lâu trên các đồ chơi của trẻ bị bạch hầu, áo choàng của nhân viên y tế…Vi khuẩn bạch hầu chết ở nhiệt độ 58oC trong vòng 10 phút, dưới ánh sáng mặt trời vi khuẩn chết trong vài giờ.

Vi khuẩn tiết ngoại độc tố, gây ức chế tổng hợp protein, từ đó hủy hoại mô tại chỗ tạo nên giả mạc dày và dai, màu trắng ngà hoặc trắng xám, bám chặt vùng mũi, họng, lưỡi, tuyến hạnh nhân và thanh quản.

Ngoại độc tố hấp thu vào máu và phát tán khắp cơ thể. Chính ngoại độc tố này gây nên những biến chứng nguy hiểm như viêm cơ tim, viêm phổi, viêm dây thần kinh, tổn thương thần kinh, liệt cơ, …

Đường lây

Vi khuẩn bạch hầu rất dễ lây lan. Chúng lây theo đường hô hấp khi nói chuyện, hắt hơi, ho… Giọt bắn có chứa vi khuẩn hòa vào không khí, người khỏe mạnh hít phải, nếu cơ thể chưa có miễn dịch chống vi khuẩn bạch hầu sẽ mắc bệnh.

Ngoài ra, vi khuẩn bạch hầu cũng có thể lây nhiễm gián tiếp khi tiếp xúc với các vật dụng có dính chất bài tiết hoặc giọt bắn có chứa vi khuẩn bạch hầu.

Biểu hiện lâm sàng

Thời gian ủ bệnh khoảng 2 – 5 ngày hoặc hơn kể từ khi nhiễm vi khuẩn. Bệnh khởi phát với các triệu chứng điển hình như sốt nhẹ, ho, khàn tiếng, đau họng dẫn đến chán ăn. Sau khoảng 2 – 3 ngày, xuất hiện giả mạc màu trắng ngà, dày dai, bám chặt vào mặt sau hoặc lan rộng hai bên thành họng, dễ chảy máu. Đây là một trong những triệu chứng phổ biến, dễ nhận biết của bệnh.

Vi khuẩn bạch hầu trú ngụ ở các giả mạc tiết ra ngoại độc tố khiến người bệnh bị suy hô hấp và tuần hoàn, liệt màn khẩu cái làm giọng nói bị thay đổi, sặc và khó nuốt khi ăn uống, lú lẫn; trường hợp nặng người bệnh có thể hôn mê và tử vong. Một số trường hợp gây biến chứng viêm cơ tim hay viêm dây thần kinh ngoại biên.

Hay gặp nhất là bạch hầu họng (70%), bạch hầu thanh quản (20-30%), bạch hầu mũi (4%), bạch hầu mắt (3-8%), bạch hầu da…

Bệnh có thể điều trị khỏi hoặc có thể gây tử vong chỉ trong 6 – 10 ngày. Tỷ lệ tử vong do bệnh trung bình khoảng 5 – 10%.

Các biến chứng của bệnh bạch hầu

  • Tắc nghẽn đường hô hấp gây khó thở
  • Viêm cơ tim
  • Tổn thương các dây thần kinh dẫn đến tê liệt
  • Liệt màn khẩu cái (màn hầu)
  • Cơ hoành bị tê liệt
  • Viêm phổi

Chẩn đoán bệnh bạch hầu

Chẩn đoán bệnh bạch hầu dựa vào các yếu tố dịch tễ, biểu hiện lâm sàng và bằng chứng về vi sinh.

Yếu tố dịch tễ: bệnh nhân đang ở trong vùng có dịch hoặc đi đến vùng có dịch, hoặc có tiếp xúc với người nghi mắc bạch hầu trong 1 – 2 tuần trước khi có triệu chứng. Có các biểu hiện lâm sàng gợi ý như đã trình bày ở trên.

Tìm vi khuẩn gây bệnh bằng cách soi mẫu bệnh phẩm phết từ hầu họng hoặc phân lập vi khuẩn trong môi trường đặc hiệu.

Bệnh phẩm: lấy dịch hầu họng ngoáy ở vùng rìa xung quanh giả mạc (tăm bông lấy bệnh phẩm được bảo quản trong môi trường Amies hoặc môi trường Stuart, vận chuyển ngay đến phòng xét nghiệm càng sớm càng tốt). Nhuộm soi tìm vi khuẩn hình thái bạch hầu: Trực khuẩn gram (+), hình chuỳ.

Nuôi cấy trên môi trường thạch máu, môi trường chọn lọc Loeffle (Tellurite kali) (hoặc môi trường Cystine tellurite blood agar – CTBA) tìm vi khuẩn bạch hầu, xác định độc tố bạch hầu (Toxigenicity testing bằng VD: Elek test).

Dùng kĩ thuật PCR xác định gen độc tố bạch hầu

Điều trị bệnh bạch hầu

Bệnh bạch hầu được điều trị bằng kháng sinh và kháng độc tố bạch hầu (SAD).

Huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (SAD)

Sử dụng ngay khi nghi ngờ mắc bệnh. Liều lượng phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh, không phụ thuộc vào lứa tuổi và cân nặng. Cần test trước khi tiêm, nếu dương tính thì áp dụng phương pháp giải mẫn cảm (Besredka)

– Bạch hầu hầu họng hoặc thanh quản trong 2 ngày đầu: 20.000 – 40.000 UI

– Bạch hầu mũi họng: 40.000 – 60.000 UI

– Bạch hầu ác tính: 80.000 – 100.000 UI

Trong thể nặng, có thể xem xét truyền tĩnh mạch SAD (cần theo dõi sát các dấu hiệu phản vệ và chuẩn bị sẵn sàng để cấp cứu phản vệ nếu xảy ra). Cách thức truyền: Pha toàn bộ SAD trong 250 – 500ml muối 0,9% truyền tĩnh mạch chậm 2-4 giờ.

Kháng sinh

– Penicillin G: 50.000 – 100.000 đơn vị/kg/ngày chia 2 lần, tiêm bắp 14 ngày cho đến khi hết giả mạc.

– Hoặc Erythromycin uống: trẻ em 30-50mg/kg/ngày; người lớn 500mg x 4 lần/ngày dùng 14 ngày cho đến khi hết giả mạc.

– Hoặc Azithromycin: trẻ em: 10-12mg/kg/ngày, người lớn: 500mg/ngày x 14 ngày.

Dự phòng

– Tất cả người bệnh nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn hai lần âm tính. Mỗi mẫu bệnh phẩm được lấy cách nhau 24 giờ và không quá 24 giờ sau khi điều trị kháng sinh. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm thì phải cách ly bệnh nhân sau 14 ngày điều trị kháng sinh.

– Rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn.

– Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, quần áo của người bệnh phải tẩy uế và sát khuẩn.

– Phòng bệnh bằng vắc-xin bạch hầu: trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, dùng vắc-xin đa giá: bạch hầu – ho gà – uốn ván cho trẻ. Bắt đầu tiêm từ 2-3 tháng tuổi, tiêm 2 lần, mỗi lần 1ml cách nhau 1 tháng. Một năm sau nhắc lại mỗi một năm 1 lần cho đến 5 tuổi.

– Với người tiếp xúc: Xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày.

Những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh bạch hầu như phụ nữ trước hoặc đang mang thai, người già trên 50 tuổi; người mắc bệnh mạn tính… cũng cần tiêm đầy đủ các mũi vắc xin phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này.

Người dân sống trong vùng có ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc khám chữa bệnh cũng như các chỉ định phòng bệnh của cơ sở y tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hướng dẫn của Bộ Y tế Chẩn đoán và điều trị bệnh bạch hầu, ban hành theo QĐ Số: 2957/QĐ-BYT, ngày 10.7.2020
  2. US CDC, Clinical Guidance for Diphtheria, https://www.cdc.gov/diphtheria/hcp/clinical-guidance/index.html
  3. WHO, Clinical management of diphtheria: guideline, 2 February 2024, https://www.who.int/publications/i/item/WHO-DIPH-Clinical-2024.1
Facebook
Twitter
LinkedIn
Email