Nhiễm Virus Cúm – Nguyên Nhân & Dự Phòng

 

Tác giả: TS.BS. Nguyễn Đức Hoàng

Nhiễm virus là bệnh truyền nhiễm cấp tính, dễ gây thành dịch do virus cúm gây ra. Virus cúm gồm 3 týp huyết thanh A, B và C trong đó týp A chia thành nhiều phân týp dựa vào kháng nguyên H và N, virus cúm A dễ gây biến dị.

Định nghĩa

Là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, dễ gây thành dịch lớn do nhiễm virus cúm, có biểu hiện lâm sàng là nhức đầu, đau mình mẩy, sốt, ho và mệt mỏi. Bệnh gây ảnh hưởng lên đường hô hấp trên và dưới, thông thường bệnh diễn biến tự khỏi song có thể gây nhiều biến chứng nặng hay gặp, nguy hiểm nhất là viêm phổi do vi khuẩn và suy đa tạng.

Nguyên nhân bệnh cúm

Nguyên nhân của bệnh cúm là do virus cúm (Influenza virus), virus này liên tục biến thể với các chủng mới xuất hiện thường xuyên. Vỏ của virus có bản chất là glycoprotein gồm 2 loại kháng nguyên là kháng nguyên ngưng kết hồng cầu H (Hemaglutinin) có 15 loại và kháng nguyên trung hoà N (Neuraminidase) có 9 loại. Khi tổ hợp của các kháng nguyên này sắp xếp khác nhau tạo nên các phân týp khác nhau của virus cúm A. Trong quá trình lưu hành, 2 kháng nguyên H và N luôn luôn biến đổi, đặc biệt là kháng nguyên H. Những biến đổi nhỏ liên tục gọi là “trôi” kháng nguyên (antigenic drift) gây nên các vụ dịch vừa và nhỏ. Khi những biến đổi nhỏ và dần dần tích tụ lại thành những biến đổi lớn, tạo nên týp kháng nguyên mới, đó là do sự tái tổ hợp giữa các chủng virus cúm động vật và cúm người. Những phân týp kháng nguyên mới này sẽ gây đại dịch cúm trên toàn cầu.

Lâm sàng bệnh cúm

Bệnh cúm là bệnh đặc trưng do sự xuất hiện đột ngột các triệu chứng toàn thân như đau đầu, sốt, gai rét, đau cơ đi kèm với các biểu hiện đường hô hấp. Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất rộng, thay đổi từ nhẹ, không sốt giống cảm cúm thông thường đến hội chứng nặng với biểu hiện của đường hô hấp nặng và suy đa tạng.

Ban đầu, cúm có vẻ giống như cảm lạnh thông thường với sổ mũi, hắt hơi và đau họng. Nhưng cảm lạnh thường phát triển chậm, trong khi cúm có xu hướng xuất hiện đột ngột. Người dân hay gọi là bệnh cảm cúm, tuy nhiên 2 căn bệnh này khác nhau nhưng do dễ bị nhầm lẫn do các triệu chứng khá giống nhau, thường thì người bệnh tự điều trị theo kinh nghiệm truyền miệng mà ít khi đi đến bệnh viện.

Các triệu chứng điển hình của bệnh cúm bao gồm: sốt trên 38 độ C, đau cơ bắp, ớn lạnh, đau đầu, ho khan, mệt mỏi, nghẹt mũi, viêm họng.

Đường lây truyền bệnh cúm

Virus cúm di chuyển trong không khí trong các giọt nước do người bị bệnh cúm phát ra khi trùng ho, hắt hơi hoặc nói chuyện. Người khác có thể hít trực tiếp các giọt hoặc bạn có thể nhiễm virus do chạm vào các đồ vật dính virus trên bề mặt như điện thoại hoặc bàn phím máy tính, sau đó đưa tay lên dụi mắt, mũi hoặc miệng, từ đó người khỏe mạnh bị nhiễm bệnh cúm.

Đối tượng nguy cơ bệnh cúm

Các yếu tố có thể làm tăng khả năng phát triển bệnh cúm hoặc các biến chứng của nó bao gồm:

Tuổi: trẻ nhỏ và người cao tuổi có nguy cơ mắc cao.

Điều kiện sống hoặc làm việc: những người sống hoặc làm việc ở những nơi đông người như viện dưỡng lão hoặc doanh trại quân đội,… có nhiều khả năng bị cúm.

Hệ thống miễn dịch suy yếu: phương pháp điều trị ung thư, thuốc chống thải ghép, corticosteroid và HIV/AIDS có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch của người bệnh, khi cơ chế bảo vệ cơ thể bị yếu thì dễ dàng mắc bệnh cúm hơn và làm tăng nguy cơ phát triển các biến chứng của cúm.

Bệnh mãn tính như hen suyễn, đái tháo đường hoặc các vấn đề về tim, có thể làm tăng nguy cơ biến chứng cúm.

Mang thai: phụ nữ mang thai có nhiều khả năng phát triển các biến chứng cúm, đặc biệt là trong 6 tháng sau của thai kỳ.

Béo phì (BMI >40 trở lên).

Chẩn đoán

Chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học rất khó chẩn đoán xác định nhiễm virus cúm đặc biệt nhiễm virus cúm A H5N1.  

Để chẩn đoán xác định nhiễm virus cúm cần dựa vào các xét nghiệm virus học như nuôi cấy virus, phát hiện acid nucleic (PCR, RT-PCR) hay huyết thanh chẩn đoán.

Điều trị

Đối với các thể bệnh cúm thông thường, điều trị chủ yếu là giảm các triệu chứng do bệnh gây ra như sốt, đau đầu, đau mỏi người. Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi cho đến khi hết sốt, ăn thức ăn dễ tiêu và uống nhiều nước. Đối với trường hợp nhiễm cúm A H5N1 phần lớn bệnh nhân cần hỗ trợ hô hấp trong 48 giờ đầu nhập viện. Các thuốc kháng virus cũng được sử dụng cho bệnh nhân, tuy nhiên hiệu quả của nó còn bàn cãi và đang được nghiên cứu

Thuốc kháng virus: Đây là thuốc ức chế enzyme tham gia vào quá trình giải phóng virus ra khỏi tế bào vật chủ. Thường sử dụng Oseltamivir (uống) và Zanamivir (hít). Nên sử dụng thuốc sớm ngay sau khi nghi ngờ nhiễm cúm A H5N1 trong khi chờ kết quả xét nghiệm.

Thuốc kháng sinh được sử dụng nhằm điều trị viêm phổi trong giai đoạn chưa khẳng định xét nghiệm và đồng thời chống vi khuẩn bội nhiễm phổi nhất là nhiễm trùng bệnh viện.

Hỗ trợ hô hấp có vai trò quan trọng trong điều trị viêm phổi do cúm A H5N1. Tuỳ theo mức độ thiếu oxy của bệnh nhân có thể sử dụng thở oxy qua kính mũi, qua Mask hay thông khí nhân tạo không xâm nhập hay xâm nhập. Ngoài ra cần phải hồi sức suy đa tạng, nâng cao thể trạng, bồi phụ nước và điện giải, điều trị triệu chứng khác và dinh dưỡng đầy đủ cho bệnh nhân

Dự phòng

Biện pháp chủ yếu của sức khoẻ cộng đồng để phòng bệnh cúm là sử dụng vacxin cúm. Do tính dễ biến dị của virus cúm nên chế tạo virus cúm gặp nhiều khó khăn. Vacxin nên được dùng sớm vào mùa thu trước đợt bùng nổ bệnh cúm và phân lập lại hàng năm để duy trì miễn dịch chống lại những giống virus cúm phổ biến nhất.

Ngoài biện pháp sử dụng vacxin phòng bệnh cúm, chúng ta có thể sử dụng các biện pháp khác đặc biệt trong nhiễm cúm A H5N1 như cách ly bệnh nhân nghi ngờ và bệnh nhân chẩn đoán nhiễm cúm A H5N1, mang các phương tiện bảo hộ lao động (đi găng, đội mũ, khẩu trang N95, quần áo bảo hộ,….), rửa tay,… Một số trường hợp có thể sử dụng các thuốc kháng virus để dự phòng. Cách phòng bệnh này được áp dụng cho người có nguy cơ cao nhưng chưa được tiêm phòng vacxin cúm hay vacxin dùng trước đó không có hiệu quả do thay đổi kháng nguyên của virus đang lưu hành. Đối với những trường hợp phơi nhiễm với nguồn lây nhưng không mang các phương tiện bảo hộ, cần uống thuốc dự phòng: Oseltamivir (Tamiflu) 75 mg x 1 viên/ngày x 5 ngày.

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email