Trạng thái đề tài:
Lĩnh vực: Y dược
Hoạt động: Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật
Năm: 2025
Ngày nộp đề tài: 15/03/2025
Thông tin nhóm tác giả
Tên tác giả / nhóm tác giả: Lê Minh Tâm, Lê Viết Nguyên Sa, Trần Thị Như Quỳnh, Nguyễn Vũ Quốc Huy, Cao Ngọc Thành
Đơn vị công tác của chủ nhiệm: Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế
Địa chỉ cơ quan của chủ nhiệm: 6 Ngô Quyền, Huế, Việt Nam
Tính mới của giải pháp
Cụm đề tài là nghiên cứu với cỡ mẫu lớn đầu tiên tại Việt Nam về HCBTĐN, xác định được đặc điểm lâm sàng, rối loạn nội tiết, chuyển hoá và kiểu hình cơ bản liên quan đến HCBTĐN đặc trưng cho phụ nữ Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số khuyến nghị về các loại xét nghiệm giúp chẩn đoán và phương pháp điều trị hiếm muộn phù hợp với tình hình dịch tễ nước ta. Đồng thời, kết quả của đề tài đã lần đầu tiên ở Việt Nam cung cấp dữ liệu lớn, là cơ sở khoa học hữu ích để thực hiện những nghiên cứu chuyên sâu về điều trị và theo dõi HCBTĐN tiếp theo. Cụ thể, sau khi nghiên cứu trên 901 trường hợp phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đến khám và điều trị vô sinh được chẩn đoán HCBTĐN (479) và không có HCBTĐN (422), kết quả cho thấy:
- Xác định được kiểu hình phổ biến của phụ nữ HCBTĐN Việt Nam thường gầy, nhưng cân nặng và BMI cao, rậm lông (chiếm 34,4%) và kiểu hình D phổ biến nhất (chiếm 67,6%). Trong đó, phụ nữ HCBTĐN Việt Nam rất hiếm khi bị rậm lông ở cằm, môi, ngực, bụng và mặt.
- Rối loạn nội tiết thường gặp ở phụ nữ mắc HCBTĐN Việt Nam là sự gia tăng AMH, tỷ lệ LH/FSH và Testosterone. AMH có thể là dấu hiệu chẩn đoán HCBTĐN ở phụ nữ Việt Nam, với ngưỡng giá trị 4,42ng/ml, độ nhạy 79,3% và độ đặc hiệu 74,08%. Nồng độ AMH máu tăng 1 ng/mL làm tăng nguy cơ mắc HCBTĐN lên 1,63 lần (95% CI: 1,506-1,764; p<0,001. Tương tự, tỷ lệ LH/FSH tăng 1 đơn vị liên quan với nguy cơ mắc HCBTĐN tăng gấp 14,43 lần (95%CI: 9,302-22,395; p<0,001).
- Rối loạn chuyển hóa khá phổ biến ở phụ nữ HCBTĐN với 10,4%. Tần suất rối loạn lipid máu 45,5%; rối loạn glucose máu 30,4%. 27,0% phụ nữ HCBTĐN có đề kháng Insulin. Ở phụ nữ mắc HCCH, bất thường chuyển hóa thường gặp nhất là giảm nồng độ HDL-C (93,9%), tiếp theo là béo bụng (84,8%), tăng TG máu (78,8%) và tăng Glucose máu đói (54,5%) và tăng huyết áp (18,2%). Ở phụ nữ đề kháng Insulin, bất thường về chuyển hóa thường gặp nhất là giảm HDL-C (87,2%); tiếp theo là tăng TG và rối loạn dung nạp đường (59,3%), ít gặp nhất là tăng huyết áp (12,8%).
- Thể tích buồng trứng của phụ nữ HCBTĐN Việt Nam thấp hơn so với các nghiên cứu khác và tương quan với nồng độ LH và AMH huyết thanh. Thể tích buồng trứng có thể giúp dự báo độ nặng và kiểu hình của HCBTĐN.
- HCBTĐN dường như không ảnh hưởng đến thông số động học hoặc tần suất xuất hiện bất thường ở sự phát triển của phôi giai đoạn sớm. Kiểu hình HCBTĐN dường như không ảnh hưởng đến kết quả TTTON.
Tính sáng tạo
Đề tài có giá trị giúp các bác sĩ lâm sàng xây dựng quy trình chẩn đoán, điều trị và theo dõi phù hợp, kéo dài suốt cuộc đời cho những phụ nữ mắc HCBTĐN trên địa bàn, cải thiện chất lượng cuộc sống, sức khoẻ tổng quát nói chung và nâng cao sức khoẻ sinh sản nói riêng. Đồng thời, kết quả của đề tài không chỉ hữu ích đối với y học hiện đại mà cũng là nguồn dữ liệu khoa học quan trọng đối với y học cổ truyền.
Cụ thể, cụm đề tài đã công bố 14 bài báo trong nước và 6 bài báo quốc tế trên các tạp chí ISI/Scopus. Việc xác định kiểu hình và các rối loạn sinh sản nội tiết bằng cách khai thác tiền sử, khám lâm sàng, siêu âm và các xét nghiệm sinh hóa, nội tiết máu có thể thực hiện rộng rãi tại hầu hết các cơ sở y tế tại các tỉnh, thành phố miền Trung Việt Nam. Đặc biệt, ở các cơ sở y tế chưa được trang bị các phương tiện thăm dò hiện đại như đầu dò siêu âm với độ phân giải cao, xác định thể tích buồng trứng có thể cân nhắc ứng dụng để góp phần chẩn đoán HCBTĐN.
Đối với phụ nữ đã được chẩn đoán mắc HCBTĐN, việc xác định nguy cơ rối loạn chuyển hóa cần được xem là một chỉ định thường quy ngay cả khi thể trạng gầy do một tỉ lệ lớn phụ nữ HCBTĐN Việt Nam mắc hội chứng chuyển hóa và nếu không được phát hiện và điều trị sớm có khả năng dẫn đến các biến chứng về lâu dài ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ người phụ nữ.
Hiệu quả kinh tế xã hội
Về mặt kinh tế, các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy tác động nặng nề và gánh nặng chi phí về điều trị và theo dõi HCBTĐN mỗi năm, chủ yếu liên quan đến các rối loạn nội tiết – sinh sản – chuyển hoá do HCBTĐN gây ra. Do vậy, việc xác định được kiểu hình gầy đặc trưng của phụ nữ mắc HCBTĐN ở quần thể Việt Nam là một bước then chốt để xây dựng quy trình tầm soát bệnh, phát hiện sớm và tránh bỏ sót các rối loạn. Từ đó, mang lại các chiến lược theo dõi, điều trị dự phòng ngăn chặn sự xuất hiện các biến chứng liên quan đến đái tháo đường, tim mạch và các bệnh mạn tính và có thể tiết kiệm được chi phí điều trị.
Về mặt xã hội, việc đưa ra chiến lược y tế phù hợp với phụ nữ mắc HCBTĐN có thể làm giảm những gánh nặng tâm lý do điều trị hiếm muộn, ngăn chặn nguy cơ ung thư phụ khoa, đồng thời cải thiện tuổi thọ, sức khoẻ tổng quát và chất lượng cuộc sống nói chung, sức khoẻ sinh sản nói riêng.