Nguyên nhân, yếu tố nguy cơ và các biện pháp dự phòng ung thư gan

Tác giả: PGS. TS Trần Xuân Chương, PGS. TS Trần Xuân Chương

Trên toàn thế giới, ung thư gan là loại ung thư phổ biến thứ sáu và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng thứ ba. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ này cao nhất ở các cá nhân người Mỹ bản địa hoặc thổ dân Alaska. Ung thư gan là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng thứ sáu ở Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, ung thư gan cũng là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở nam giới.

Nguyên nhân ung thư gan và các yếu tố nguy cơ

Loại ung thư gan phổ biến nhất ở người lớn, ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), thường phát triển ở những người mắc bệnh gan mạn tính do nhiễm virus viêm gan hoặc xơ gan. Nam giới có nhiều khả năng phát triển ung thư gan hơn phụ nữ. Những người có nhiều yếu tố nguy cơ thậm chí còn có khả năng bị ung thư cao hơn.

Nhiều yếu tố nguy cơ có liên quan đến ung thư gan. Không phải tất cả mọi người có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ này sẽ phát triển bệnh và bệnh cũng có thể xảy ra ở một số người không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào đã biết.

Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

Nhiễm virus viêm gan B (HBV): Nhiễm HBV mạn tính là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan ở châu Á và châu Phi. HBV có thể lây truyền qua máu, tinh dịch hoặc các chất dịch cơ thể khác. Nhiễm trùng có thể lây truyền từ mẹ sang con trong khi sinh con, qua quan hệ tình dục hoặc bằng cách dùng chung kim tiêm được sử dụng để tiêm chích ma túy. Nó có thể gây viêm gan dẫn đến ung thư. Tiêm vắc-xin phòng HBV đang làm giảm tỷ lệ nhiễm HBV.

Nhiễm virus viêm gan C (HCV): HCV có thể lây truyền trong máu. Nhiễm trùng có thể lây lan bằng cách dùng chung kim tiêm được sử dụng để tiêm thuốc hoặc qua quan hệ tình dục. Trước đây, nó cũng lây lan trong quá trình truyền máu hoặc cấy ghép nội tạng. Nhiễm HCV mạn tính là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản.

Xơ gan: Nguy cơ phát triển ung thư gan tăng lên ở những người bị xơ gan, một căn bệnh trong đó mô gan khỏe mạnh bị thay thế bằng mô sẹo. Nghiện rượu mạn tính và viêm gan mạn tính là những nguyên nhân phổ biến gây xơ gan. Những người mắc bệnh xơ gan liên quan đến HCV có nguy cơ mắc ung thư gan cao hơn những người mắc bệnh xơ gan liên quan đến HBV hoặc sử dụng rượu.

Sử dụng rượu nhiều: Sử dụng rượu nhiều có thể gây xơ gan, đây là yếu tố nguy cơ gây ung thư gan. Ung thư gan cũng có thể xảy ra ở những người nghiện rượu nặng nhưng không bị xơ gan. Những người nghiện rượu nặng bị xơ gan có nguy cơ mắc ung thư gan cao gấp 10 lần so với những người nghiện rượu nặng nhưng không bị xơ gan.

Các nghiên cứu cho thấy cũng có sự gia tăng nguy cơ ung thư gan ở những người nhiễm HBV hoặc HCV sử dụng rượu nhiều.

Nhiễm Aflatoxin B1: Nguy cơ phát triển ung thư gan có thể tăng lên khi ăn thực phẩm có chứa aflatoxin B1 (chất độc từ một loại nấm có thể có trong thực phẩm, chẳng hạn như ngô và các loại hạt, được bảo quản ở nơi nóng ẩm). Nó phổ biến nhất ở châu Phi cận Sahara, Đông Nam Á và Trung Quốc.

Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH): NASH là tình trạng có thể gây xơ gan và dẫn đến ung thư gan. Đây là dạng bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu khi có lượng mỡ bất thường trong gan. Ở một số người, điều này có thể gây viêm và tổn thương tế bào gan. Bị xơ gan liên quan đến NASH làm tăng nguy cơ phát triển ung thư gan. Ung thư gan cũng được phát hiện ở những người mắc NASH nhưng không bị xơ gan.

Hút thuốc lá: Hút thuốc lá có liên quan đến nguy cơ ung thư gan cao hơn. Nguy cơ tăng lên theo số lượng thuốc lá hút mỗi ngày và số năm người đó đã hút thuốc.

Các tình trạng khác: Một số tình trạng bệnh lý và di truyền hiếm gặp có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan. Những điều kiện này bao gồm:

  • Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô di truyền không được điều trị
  • Thiếu hụt alpha-1 antitrypsin
  • Bệnh dự trữ glycogen
  • Rối loạn chuyển hóa porphyrin da muộn
  • Bệnh Wilson

Có nhiều yếu tố nguy cơ: Điều này có nghĩa là có nhiều hơn 1 yếu tố nguy cơ sẽ làm tăng khả năng phát triển ung thư gan của một người nhiều hơn. Ví dụ, một người nhiễm cả vi-rút viêm gan B và C có nguy cơ cao hơn người nhiễm 1 loại vi-rút. Tương tự, một người mắc bệnh viêm gan C và uống rượu nhiều có nguy cơ cao hơn.

Các biện pháp dự phòng ung thư gan

Dự phòng ung thư là các biện pháp được thực hiện để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư. Dự phòng bao gồm tránh các yếu tố nguy cơ và tăng cường các yếu tố bảo vệ.

Sau đây là những biện pháp dự phòng ung thư gan cần thực hiện:

  • Tiêm vắc-xin phòng vi-rút viêm gan B: Ngăn ngừa nhiễm HBV (bằng cách tiêm vắc-xin HBV khi còn nhỏ) đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ ung thư gan ở trẻ em.
  • Điều trị viêm gan B mạn tính: Những bệnh nhân được chẩn đoán viêm gan B mạn tính cần được theo dõi và điều trị liên tục bằng các thuốc kháng HBV. Những phương pháp điều trị này có thể làm giảm nguy cơ đưa đến các biến chứng như xơ gan và ung thư gan.
  • Giảm tiếp xúc với aflatoxin B1: Thay thế thực phẩm có khả năng chứa lượng aflatoxin B1 cao bằng thực phẩm chứa hàm lượng chất độc thấp hơn nhiều có thể làm giảm nguy cơ ung thư gan.
  • Tránh các yếu tố nguy cơ khác: Không uống bia, rượu nhiều, tránh béo phì, theo dõi mỡ máu thường xuyên …
  • Đến ngay các cơ sở y tế hoặc phòng khám chuyên khoa để thăm khám khi có các biểu hiện nghi ngờ bệnh gan.

Sàng lọc ung thư gan

Những người có các yếu tố nguy cơ trên hoặc nghi ngờ bị ung thư gan cần đến các cơ sở y tế để khám chuyên khoa, làm các xét nghiệm và thăm dò sàng lọc định kỳ, vd: mỗi 6 tháng 1 lần.

Các xét nghiệm bao gồm các chỉ điểm ung thư như alpha-fetoprotein (AFP), AFP-L3, CEA, PIVKA-II … Các thăm dò hình ảnh bao gồm siêu âm bụng và chụp CT khi có chỉ định của BS.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Yuen M.F., Hou J.L., Chutaputti A., Hepatocellular carcinoma in the Asia pacific region, J Gastroenterol Hepatol, 24 (2009), pp. 346-353
  2. Neuveut C., Wei Y., Buendia M.A., Mechanisms of HBV-related hepatocarcinogenesis, J Hepatol, 52 (2010), pp. 594-604
  3. Chan H.L., Sung J.J., Hepatocellular carcinoma and hepatitis B virus., Semin Liver Dis, 26 (2006), pp. 153-161
  4. Villanueva, A. Hepatocellular carcinoma. N. Engl. J. Med.380(15), 1450–1462 (2019)
  5. Do Young Kim1, Bao Nguyen Toan2,  Henry Lik Yuen Chan et al, Utility of combining PIVKA-II and AFP in the surveillance and monitoring of hepatocellular carcinoma in the Asia-Pacific region, Clin Mol Hepatol. 2023; 29(2): 277-292.
Facebook
Twitter
LinkedIn
Email