Địa danh Huế

Tác giả: Trần Như Đăng Tuyên

Địa danh Huế đã không còn xa lạ gì với người dân cả nước, từng là kinh đô triều Nguyễn, được coi như đại diện của miền Trung, vì khi nhắc về ba miền, người ta dùng cụm từ “Hà Nội – Huế – Sài Gòn”. Cái tên Huế nghe rất lạ, không giống những địa danh phiên âm từ Hán Việt, nghĩa trong các tiếng dân tộc khác cũng không có. Hiện chưa có nguồn thông tin nào khẳng định địa danh “Huế” chính thức xuất hiện lúc nào.

Tên gọi Huế

Để tìm hiểu điều này, chúng ta hãy cùng quay ngược thời gian trở về thời Trần. Theo lịch sử, để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân, vua Chiêm là Chế Mân đã dâng hai châu Ô và Lý, mà một phần trong đó là địa phận Thừa Thiên ngày nay. Sau vua Trần chia cả nước thành các trấn, mà thành phố Huế thuộc trấn Thuận Hoá. Tương truyền Thuận Hoá được ghép bởi tên châu Thuận và châu Hoá, trong đó Thuận (順) là “êm xuôi” (như “thuận lợi”) còn Hoá (化) là “thay đổi” (như “biến hoá”). Thuận Hoá nhìn chung có thể hiểu là “trở nên thuận lợi”.

Thành phố Huế với đặc trưng “Văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường và thông minh”

Địa danh Thuận Hoá được sử dụng qua nhiều thời kỳ, tới thời Lê bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Sau không rõ vào lúc nào, Thuận Hoá được hiểu là vùng mà ngày nay là Huế.

Theo các nhà nghiên cứu, trong văn liệu cổ, Huế được ký âm là Hoá, được tìm thấy trong tác phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, tương truyền của vua Lê Thánh Tông. Trong đó có câu: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bì hồ tiêu, thau Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then”. Những tài liệu sử học cũ ngoại trừ Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu khi nói tới Huế, đều dùng cái tên Phú Xuân hoặc Kinh đô, hoặc Kinh, chứ không dùng tên Huế.

Như vậy có cơ sở để khẳng định Huế chính là biến âm từ Hoá trong Thuận Hoá. Trong tiếng Việt, sự thay đổi từ “oa” sang “uê” tuy hiếm nhưng không phải không có, điển hình như trạng thái ngang bằng điểm số được gọi là “hoà nhau” hoặc “huề nhau”.

Bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim là bộ sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, ngoài nguồn sử liệu truyền thống, tác giả đã sử dụng nguồn sử liệu của phương Tây, và tên Huế xuất hiện. Trong hồi ký của Pierre Poivre, một thương nhân Pháp đến Phú Xuân vào năm 1749, cái tên Huế xuất hiện nhiều lần dưới dạng hoàn chỉnh là Hué. Năm 1787, Le Floch de la Carrière đã vẽ bản đồ duyên hải Đàng Trong cho Bộ Hải Quân Pháp, trong đó bản đồ đô thành Huế được vẽ một cách khá rõ và cái tên Huế đã được ghi như cách người Pháp thường viết về sau: HUÉ.

Trong một lá thư viết tại Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1789 của Olivvier de Puynamel gởi cho Létodal ở Macao, hai lần cái tên Hué được nhắc đến khi nói về tình hình nơi này.

Ngày 20/10/1898, dụ của Vua Thành Thái lập thị xã Huế, ngày 30/8/1899 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ và ngày 12/12/1929 được nâng thành thành phố Huế.

Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An tại cuộc hội thảo về Bảo tồn và phát huy di sản phi vật chất khu vực Huế, tổ chức tại Đại Nội Huế (18.3 đến 21.3.1994), học giả người Pháp gốc Champa, ông Po Dharma đã cho rằng địa danh Huế khởi nguyên từ một từ Champa cổđược phát hiện trong văn bia, phiên âm Latinh là Huế, có nghĩa là mùi thơm. Ông Po cho hay chữ Huế trong tiếng Champa cổ nói trên dùng để chỉ một thành phố của Champa ở gần một con sông, tên thành phố ấy, có nghĩa là mùi thơm.

Như vậy, có thể đoán định, tên Huế là do thói quen của dân gian, trong lối nói bình dân thường giản lược tên gọi địa danh còn một âm tiết. Tên dân dã, chỉ cái tên Thuận Hóa, do đọc chệch Hóa thành Huế. Còn tại sao lại đọc chệch như thế, thì có lẽ phải nghiên cứu ngữ âm tiếng địa phương Thừa Thiên Huế. Duy có việc gọi Thuận Hóa thành ra Hóa – Huế thì hiểu được. Cư dân Việt truyền thống, tên cổ (nôm) địa danh toàn đơn âm, bây giờ còn rơi rớt một ít ở phía Bắc, được lưu dân mang tập quán ấy vào miền Nam. Như tên Hải Phòng trước năm 1975 nhiều nơi cũng chỉ gọi là Phòng. Hoặc tên gọi của thành phố Vinh, trước đây dân gian gọi là Kẻ Vang hoặc Kẻ Vịnh. Vào thời hậu Lê, nơi đây được gọi là trấn Vinh Doanh, có thôn Vĩnh Yên, Yên Vinh, và chợ Vĩnh. Từ các các địa danh kể trên, theo thời gian, người dân rút gọn lại còn một từ, tạo thành tên gọi Vinh. Cũng vì thế, Thuận Hoá được lược thành Hoá rồi biến âm ra Huế, đây là cách lý giải nhận được nhiều đồng thuận nhất.

Về địa danh Thừa Thiên Huế

Bí ẩn hơn Huế là tên gọi Thừa Thiên. Tên này có từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Tuy chưa có nhiều tài liệu nhưng cứ xem mặt chữ mà xét thì Thừa là “vâng theo” (như “thừa lệnh) còn Thiên là “trời”, vậy Thừa Thiên có thể hiểu là “vâng mệnh trời”. Ngoài ra Huế từng có tên gọi Phú Xuân, trong đó Phú (富) là giàu có còn Xuân (春) là mùa xuân, chỉ sự sung túc.

Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành đô thị di sản quốc gia

Theo các nhà nghiên cứu Huế, danh xưng Thừa Thiên Huế, từ trước đến nay, chúng ta đã quen với danh xưng chính thức của tỉnh Thừa Thiên Huế, gắn kết từ thành tố “Thừa Thiên” thời Nguyễn và “Huế” trong quá trình đô thị hóa cuối thế kỷ XIX. Yếu tố “thừa mệnh trời” trong chức năng đế đô của một vùng Kinh sư thời Nguyễn không còn nữa nhưng tinh thần Huế xuyên suốt vượt thời gian trong tiểu vùng văn hóa Huế đã lan tỏa khắp nơi trong ngoài nước với bao giá trị, hình ảnh có tính biểu tượng đặc trưng.

Theo hồ sơ phương án “Mô hình thành phố trực thuộc Trung ương” của Sở Nội vụ Thừa Thiên Huế, về mặt lịch sử, tên gọi “Thừa Thiên Huế” chỉ chính thức xuất hiện từ năm 1989, sau khi Quốc hội khóa VIII ban hành nghị quyết chia tách tỉnh Bình Trị  Thiên thành 3 tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Bình và Quảng Trị.

Trước năm 1989, tên gọi của tỉnh thay đổi qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau và hợp nhất với các vùng đất Quảng Bình, Quảng Trị, với các tên gọi như lộ Thuận Hóa, phủ Thuận Hóa, xứ Thuận Hóa, phủ Triệu Phong, dinh Quảng Đức. Đến năm 1822, vua Minh Mạng quyết định đổi dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên, là một trong 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh của nhà nước phong kiến. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền nhân dân các địa phương được thành lập, kiện toàn. Lúc đó, phủ Thừa Thiên được đổi thành tỉnh Nguyễn Tri Phương.

Nhưng tên gọi này chỉ tồn tại trong vòng 2 tháng, đến ngày 09/10/1945, Hội đồng Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành nghị quyết về tên gọi các đơn vị hành chính của cả nước; trong đó, tỉnh Nguyễn Tri Phương được đổi lại thành tỉnh Thừa Thiên và tồn tại đến tháng 3/1976.

Sau khi thống nhất đất nước, tháng 4/1976, tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập trên cơ sở sáp nhập 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Năm 1989, tỉnh Bình Trị Thiên lại được tách ra thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế như ngày nay.

Như vậy, cùng với sự thăng trầm theo dòng chảy lịch sử dân tộc, tên gọi và địa giới hành chính thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử khác nhau và ổn định với tên gọi Thừa Thiên Huế từ năm 1989 đến nay.

Thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW của Bộ Chính trị hướng đến xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn hóa Huế, các danh xưng “Thành phố Thừa Thiên Huế” hay “Thành phố Huế” được các nhà khoa học đưa ra đều có lý với những luận chứng luận cứ xác đáng; nhưng rõ ràng, sự ngắn gọn tinh tế, gần gũi thân thương gắn liền nhiều giá trị nổi bật của địa danh Thành phố Huế vẫn là điều cần được chú ý.

Danh từ “Huế” sẽ thuận lợi rất nhiều trong giao dịch quốc tế, vì bản thân từ “Huế” vừa ngắn gọn, dễ nghe, dễ đọc, dễ nhớ và mang âm sắc đặc trưng của một vùng đất nổi tiếng. Trong khi đó, tên gọi “Thừa Thiên Huế” lại trở nên khó tiếp nhận hơn đối với du khách là người nước ngoài. Việc lấy tên thành phố Huế cũng là cách bảo tồn và phát huy giá trị, danh tiếng của một vùng đất vốn đã khắc sâu vào tâm thức của mọi người từ khắp nơi trên toàn thế giới./.

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email