Ứng dụng Khoa học Công nghệ vào đời sống là một trong những nhiệm vụ góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của khoa học và công nghệ, coi đây là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, để hoạt động khoa học và công nghệ phát triển hơn nữa cần phải có những chính sách cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào đời sống, sản xuất.

Trong thời gian qua, có rất nhiều đề tài, dự án nghiên cứu khoa học ứng dụng vào cuộc sống, đặc biệt các đề tài ứng dụng vào nông nghiệp nông thôn, góp phần rất lớn trong việc cải thiện đời sống nhân dân. Điều quan trọng, từ các đề tài đã tạo ra những mô hình sản xuất thâm canh, an toàn, bền vững và ổn định. Công nghệ kỹ thuật mới đã tạo bước đột phá, hình thành các vùng chuyên canh trồng cây ăn quả đặc sản, trồng hoa công nghiệp, rau an toàn, tạo giống lúa lai năng suất cao, phòng chống dịch bệnh …

Để tạo cho cho khoa học và công nghệ phát triển tại nông thôn miền núi, Nhà nước đã hỗ trợ nhiều dự án phát triển với kinh phí đầu tư hàng chục tỷ đồng, giúp bà con phát triển kinh tế tổng hợp, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất như: xử lý cung cấp nước sạch công nghệ asen, bảo quản tiêu thụ sữa tươi, chế biến thức ăn tổng hợp, thiết bị xử lý mây tre đan… Phong trào lao động sáng tạo phát huy sáng kiến và cải tiến kỹ thuật đã xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho nhiều cá nhân, tổ chức. Nhờ sự mạnh dạn trong đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đã giảm đáng kể thất thoát sau thu hoạch, đồng thời nâng cao giá trị sản phẩm, tạo đà cho hàng hóa nông sản Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Cùng với đó, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ Việt Nam cũng đã và đang gắng sức phấn đấu đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển. Mặc dù khoa học và công nghệ Việt Nam đã có nhiều tiến bộ, nhưng đến nay vẫn còn bộc lộ những hạn chế cần khắc phục, đặc biệt là việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào đời sống, sản xuất như: Ở nông thôn, miền núi, phần lớn nông dân ở vùng sâu, vùng xa còn ít hiểu biết và thiếu thông tin về các giống mới, các quy trình công nghệ tiên tiến, cũng như nhu cầu đa dạng của thị trường. Việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn còn chậm, thiếu các giải pháp đồng bộ nhằm tạo động lực đối với việc chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tế sản xuất. Nhiều đề tài sau khi nghiệm thu không triển khai được vào sản xuất do chất lượng kém và không xuất phát từ yêu cầu thực tiễn.

Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm chủ lực mà chưa quan tâm đến sản phẩm công nghệ ứng dụng cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Hằng năm, cả nước có nhiều chương trình đầu tư cho khoa học và công nghệ của địa phương, nhưng thiếu tính liên kết và đồng bộ, dẫn đến sự chồng chéo, phân tán, hiệu quả thấp…

Hiện nay hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ trong lĩnh vực sản xuất đang còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là vấn đề đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp và cơ chế chính sách còn nhiều bất cập. Các đơn vị khoa học và công nghệ chưa thật sự quan tâm đến hiệu quả đóng góp cho sản xuất. Bên cạnh đó chúng ta còn thiếu nhiều cán bộ khoa học chuyên sâu trong từng lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao. Hệ thống cơ sở vật chất dành cho nghiên cứu còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các vùng nông thôn, miền núi…

Mặt khác, cần có các chính sách giúp doanh nghiệp chủ động sử dụng nguồn lực của mình đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ. Việc phát triển khoa học và công nghệ là một quá trình lâu dài, do đó các doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ phù hợp trên cơ sở các nguồn lực sẵn có của mình và sự hỗ trợ từ Nhà nước, các tổ chức quốc tế và từ các doanh nghiệp bạn. Vì vậy, Nhà nước cần có những chính sách cụ thể hơn tạo điều kiện cho sự kết nối giữa doanh nghiệp và các trường đại học, việc xây dựng thử nghiệm các viện nghiên cứu liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp và đánh giá các viện này sẽ là cơ sở phát triển mô hình hợp tác này.

Cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư tài chính nhằm khuyến khích, tạo điều kiện để các nhà khoa học tham gia; tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, nhất là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ sạch; khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Theo đó, các cấp, các ngành và ngành Khoa học và Công nghệ nên chủ trì, lựa chọn kỹ các đề tài sát thực tế, có tính khả thi cao; kiên quyết dừng đầu tư kinh phí cho các dự án nghiên cứu không có tính khả thi, hiệu quả thấp. Các sở, ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện, thị xã, thành phố và các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng kế hoạch ứng dụng khoa học công nghệ; đề xuất chuyển giao các kết quả nghiên cứu thành công vào thực tế.

Ngoài ra, các ngành chức năng cũng nên đẩy mạnh nghiên cứu hoàn thiện công nghệ, nhất là phù hợp hóa các công nghệ của nước ngoài, hỗ trợ xây dựng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong các chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp như chương trình nông thôn miền núi, chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, chương trình đổi mới công nghệ quốc gia… nhằm tạo đà cho khoa học và công nghệ phát triển và ứng dụng vào nhiều lĩnh vực của đời sống. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, góp phần thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

TS. Bùi Thắng – Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp hội

Facebook
Twitter
LinkedIn
Email